28 tháng 3, 2023

Tản mạn: TẤC LÒNG THƯỢNG ĐẾ

Một đệ tử trẻ mới được nhận vào sống trong một tu viện. Đích thân tu viện trưởng hướng dẫn cậu những điều cần thiết. Sau đó, thầy giao đệ tử cho các huynh trưởng trong tu viện để được huấn luyện theo nhiều yếu tố mà một người tu trì cần phải có và phải giữ.


Thời gian trôi qua, đệ tử được dạy dỗ nhiều khuôn phép và những lối cư xử bất thành văn trong tu viện. Về hình thức thì đệ tử cố gắng giữ theo những gì đã được hướng dẫn, nhưng về tinh thần thì cậu chưa thể hiểu hết và sống tốt điều được dạy.




Vẫn giữ giờ kinh nguyện đều đặn với các huynh trưởng, nhưng đang nguyện kinh thì cơn buồn ngủ ập đến nhanh chóng vào sáng sớm, vào sau giờ ngủ trưa vầ mỗi tối. Cứ mỗi khi thấy chiếc đầu nho nhỏ gật gù thì các huynh đã rõ chuyện gì. Rồi các huynh bàn với nhau để xin thầy cho cậu đánh chuông trong giờ kinh và có những ngày xướng kinh trong tuần. Cứ ngỡ làm thế thì cậu sẽ chiến thắng cơn buồn ngủ, nhưng chỉ vài ngày đầu sốt sắng. Vài hôm sau đó cậu lại gục gật bên chiếc chuông, có hôm đích thân tu viện trưởng khẽ khàng đến cạnh kêu cậu thức dậy. Có hôm các huynh phải cử một huynh ra ngồi cạnh tiểu đệ mà kêu cậu dậy, nhưng dậy rồi cậu vẫn từ từ chìm vào giấc ngủ. Nhất là khi tới phiên xướng kinh, có hôm một huynh gọi làm cậu giật mình tỉnh ngủ xướng nhầm kinh khác với cung giọng buồn cười. Cả tu viện trưởng lẫn các huynh ai cũng phì cười trong giờ kinh nguyện.


Cũng vậy, trong công việc thì cậu vẫn giữ, nhưng chỉ làm cách qua loa chóng vội. Quét khoảnh sân còn chừa lại những đống lá lỗ chỗ, được nhắc thì cậu gãi đầu xin lỗi rồi chạy tới dọn từng đống lỗ chỗ ấy. Được giao việc lau hành lang và lang cang, chỗ thì thật sạch mà chỗ thì vằn vện khó tả. Còn bao nhiêu việc mà đệ tử trẻ vẫn chưa quen dù đã hơn nửa năm trôi qua.


Các huynh ngồi xầm xì với nhau và cho rằng: “Tiểu đệ không hợp với lối sống này! Lôi thôi quá! Nửa năm rồi chứ ít gì mà chưa học được! Chưa thay đổi được!” Riêng tu viện trưởng không hề có ý kiến gì. Ngài vẫn mỉm cười và quan sát đệ tử trẻ cũng như quan sát cách các huynh trưởng giúp tiểu đệ này ra sao.


-“Thưa thầy, con có việc xin được trình bày…”


Một huynh đại diện anh em xin gặp tu viện trưởng để trình bày vấn đề. Huynh kể tất cả mọi điều, đầy đủ và thậm chí phê bình cậu đệ tử trẻ thậm tệ. Tu viện trưởng chỉ ngồi lắng nghe với gương mặt bình thản, thi thoảng nở nét cười hiền từ. Sau khi nghe sư huynh này trình bày xong, ngài hỏi lại:


 -“Hẳn con và các huynh đã thấy sự khác biệt giữa con và tiểu đệ trẻ. Vậy, thầy hỏi con, riêng con thì con thấy đâu là khác biệt giữa con và tiểu đệ này”


Sau câu hỏi là một tràng câu trả lời so sánh và phê bình. Không khác mấy so với những gì huynh này đã trình bày với thầy lúc nãy. Tu viện trưởng gật gù đồng ý.


–“Thầy đồng ý với con! Vậy thầy hỏi con thêm một điều nữa: Vậy theo con nghĩ Thượng Đế nghĩ gì về con và tiểu đệ trẻ này? Chắc Thượng Đế cũng nhận ra những điểm yếu của đệ tử như chúng ta suy nghĩ, con nhỉ?”


Vị tu sĩ gãi đầu phân vân, ấp úng trả lời thầy mình:


-“Dạ! Con nghĩ… chắc Thượng Đế… không nghĩ thế ạ! Vì… vì… con cũng có nhiều thiếu sót ạ! Thưa thầy.”


Tu viện trưởng mỉm cười hiền từ, nhỏ nhẹ nói:


-“Ờ! Thầy cũng không biết Thượng Đế nghĩ gì! Vì ta không phải là Thượng Đế. Nhưng có lẽ tấc lòng thầy trò ta “rộng quá” nên bao phủ và nhớ hoài cả ưu điểm lẫn khuyết điểm người khác, thậm chí còn hằn học, phê bình và chì chiết. Còn tấc lòng Thượng Đế thì “hẹp quá” nên chỉ thấy ưu điểm của con người chúng ta thôi con nhỉ!


Vị tu sĩ trẻ thinh lặng cúi đầu nhè nhẹ trước vị thầy đáng kính. Thầy lấy đôi tay run run đặt nhẹ lên vai đệ tử rồi nói:


 -“Thôi! Đời tu của thầy trò ta cứ học theo cái “hẹp hòi” chính đáng của Thượng Đế là được con nhỉ! Rộng quá ta ôm không hết, con à!”


Little Stream

Photo: Moon

25 tháng 3, 2023

Chuyển ngữ: NGHỆ THUẬT VÀ ĐỨC TIN - TUẦN 5 MÙA CHAY NĂM A

XIN XEM VIDEO TRƯỚC KHI ĐỌC BÀI 

Cái chết đe dọa sự sống trong câu chuyện về sự sống lại của La-da-rô, và Sự phục sinh của La-da-rô (Resuscitation of Lazarus) của János Vaszary mời chúng ta bước vào bối cảnh này. Bức tranh năm 1912 này là sự kết hợp ấn tượng giữa các phong cách: các hình vẽ gợi lại phong cách tiêu chuẩn của các biểu tượng Byzantine, trong khi nền, màu sắc và cách thể hiện có chất lượng hiện đại, sống động. Đây là truyền thống được tôn kính đang diễn ra ở Phương Đông vào thời bấy giờ, giống như tìm cách thấm nhuần thông điệp Tin Mừng ngày nay của chúng ta.




Vaszary không kể nhiều câu chuyện bằng việc mời chúng ta vào trung tâm của nó. Thay vì một câu chuyện kể, ông đưa ra ba thực tế chính được tượng trưng bởi những con số này. Ở bên trái, những người phụ nữ đang khóc và cầu xin là Mác-ta và Ma-ri-a dồn chúng ta vào nỗi buồn sợ hãi và mất mát khi em trai của họ bị bệnh tật hành hạ. Ở giữa, La-da-rô trần truồng và khập khiễng trong vòng tay của một nhân vật oai nghiêm mặc đồ đỏ—Thần Chết. Thi thể của La-da-rô gợi nhớ đến thi thể của Chúa Ki-tô trên thập giá, một kẻ chống đối Pietà với thân xác được giữ ở đây không phải bởi một người mẹ đau khổ mà là một Thần Chết chiến thắng và bất chấp. Ở bên phải, Chúa Giê-su và các môn đệ vào để ngăn cản Thần Chết.


Chúa Giê-su, giơ tay chúc lành, ngăn chặn Thần chết trên đường đi của Ngài. Khi các môn đệ kinh ngạc nhìn Ngài, thì Chúa Giê-su nhìn chúng ta, với một sự tự tin kiên định làm hạ thấp chiến thắng giả dối của Thần Chết. Đức Ki-tô nói với chúng ta, những người xem, bằng lẽ thật vĩnh cửu: “Ta là sự sống lại và là sự sống; Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống.”


Một biểu hiện đáng chú ý của phong cách hiện đại của biểu tượng này là nền. Thay vì màu vàng nguyên khối, chúng ta thấy bầu trời rạng đông, một dấu hiệu khác của sự thức tỉnh đang diễn ra. Trong đoạn Tin Mừng, Chúa Giê-su dạy các môn đệ về việc đi ban ngày và vấp ngã ban đêm. Với bầu trời rạng đông, chúng ta có thể thấy trước một con đường vững chắc phía trước, một con đường chắc chắn dẫn đến sự cứu rỗi và sự sống viên mãn. Có một biểu tượng mạnh mẽ ở đây vì con đường riêng của Đức Ki-tô sẽ sớm dẫn Ngài đến Giê-ru-sa-lem, Golgotha và thập tự giá. Biết rõ con đường phía trước, hành động đức tin của Chúa Giê-su là sự khích lệ sâu sắc để dám nhìn xa hơn về phía trước và tin cậy nơi Thiên Chúa là Tác Giả của Sự Sống.


Vào Chúa nhật thứ năm Mùa Chay này, chúng ta có thể ở những điểm khác nhau trên đường đi: than khóc với những người phụ nữ trong nỗi buồn của mình, trong sự kìm kẹp của cái chết như La-da-rô, tự hỏi về khả năng đức tin như các môn đệ, hoặc đối mặt với một con đường khó khăn phía trước. Chúa Ki-tô lôi kéo chúng ta trực tiếp từ bức tranh: Ta là Đường đi; hãy theo Ta đến trọn đời.


Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome

Chuyển ngữ: Little Stream

Photo: Moon

18 tháng 3, 2023

Chuyển ngữ: NGHỆ THUẬT VÀ ĐỨC TIN - TUẦN 4 MÙA CHAY NĂM A

 XIN XEM VIDEO TRƯỚC KHI ĐỌC BÀI

Chúng ta bước vào Chúa nhật thứ tư Mùa Chay này với những lời của Samuel I nói với chúng ta rằng, “Thiên Chúa không thấy như loài người thấy.” Trong Thánh lễ, sau đó chúng ta nghe câu chuyện Đức Ki-tô chữa lành người mù ở hồ Siloam. El Greco đã vẽ hai phiên bản của câu chuyện này; ở đây chúng ta khám phá phiên bản đầu tiên của họa sĩ El Greco. “Đức Ki-tô chữa lành người mù” (Christ Healing the Blind) kể lại câu chuyện Tin Mừng nhưng đồng thời cũng tiết lộ tầm nhìn nghệ thuật đang nở rộ của El Greco. Trong bức tranh đầu tiên này, chúng ta quan sát thấy El Greco đang học cách nhìn bằng con mắt của một nghệ sĩ khi ông miêu tả phối cảnh và chuyển động của các cơ thể từ mọi góc độ. Giống như người mù học cách nhìn, El Greco đang đạt được tầm nhìn độc nhất vô nhị của mình tại đây.




“Đức Ki-tô Chữa lành Người mù” giới thiệu hai nhóm người chính: Đức Ki-tô chữa lành người mù ở bên trái, và những người Pha-ri-sêu tụ tập bên phải, nghi ngờ và phản đối. Phía trước và trung tâm là tài sản ít ỏi của người ăn xin mù và một con chó đánh hơi – có lẽ là người bạn đồng hành trung thành duy nhất của anh mù. Xa hơn nữa, hai nhân vật hoàn thành vòng tròn, tham gia vào tư thế từ bi và chữa lành — lòng thương xót của Chúa đặt cạnh cuộc đối đầu bên dưới. Đặt Đức Ki-tô và những người Pha-ri-sêu ở bên trái và bên phải là một điểm trớ trêu: những người Pha-ri-sêu, những người chắc chắn về tầm nhìn đúng đắn của họ, thực tế lại mù quáng trước sự thật đang bày ra trước mắt họ, trong khi Đức Ki-tô bày tỏ sự thật ở bên trái. Đằng sau những người Pha-ri-sêu, bầu trời đầy mây xoáy củng cố tình trạng lộn xộn của họ, nhưng hành động chữa lành của Đức Ki-tô diễn ra trước bối cảnh hình ảnh chắc chắn của các yếu tố kiến trúc ổn định. Đằng sau Đức Ki-tô, El Greco dẫn mắt chúng ta đến một điểm biến mất với một dãy vòm dài, ám chỉ rằng tầm nhìn mà Đức Ki-tô ban cho người ăn xin mù là rất xa và rất xa. Ngược lại, nhóm người Pha-ri-sêu che khuất chân trời của chính họ, khi tầm nhìn thiển cận của họ đổ dồn lên nhau.


Cuối cùng, bốn người đàn ông tụ tập bên trái dường như không biết chuyện gì đang xảy ra. Ở đây, El Greco đưa vào một kiểu mù quáng khác: quên lãng ân sủng đang mở ra trước mắt họ. Sự hiện diện nhẹ nhàng của họ có lẽ khó khăn hơn so với sự hiện diện của những người Pha-ri-sêu, những người vừa thiếu tầm nhìn vừa không có nhận thức.


Câu chuyện này mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt đức tin của mình và ý thức về lòng thương xót, ân sủng chữa lành xung quanh chúng ta.


Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome

Chuyển ngữ: Little Stream

Photo: Moon

17 tháng 3, 2023

Tản mạn: BÊN KIA VÁCH NÚI

 Hồi nhỏ, tôi và anh thường hay lên ngọn núi này chơi. Núi không cao lắm nên bước chân của những đứa trẻ tha hồ sải bước lên tận đỉnh mà không mất quá nhiều thời gian. Con đường mà chúng ta đi cũng không giống như bao con đường mòn mà người dân làng đã mở. Bà con đi làm kinh tế mà. Còn chúng ta vì một mục đích rất khác. Muốn khám phá những cái mới là động lực thúc đẩy anh và tôi chọn cho mình những ngóc ngách rất riêng. Trên mỗi chặng đường, chúng ta hay làm những dấu hiệu riêng biệt. “Đây là chỗ ngồi nghỉ!” Thực ra chỉ là nơi vô tình có sự hiện diện của hai hòn đá với mặt đá được bào mòn nhẵn nhụi. May mắn thay bên cạnh hai hòn đá là con suối nhỏ chảy róc rách nghe vui tai làm sao.


Từ chỗ ngồi nghỉ ngơi giữa chặng đi lên vài bước là rừng thông cực đẹp. Những cây thông to với khóm tán xòe rộng bao phủ cả một khu rừng. Anh và tôi ngỡ đang đứng ở một khu nghỉ dưỡng nào đó chứ chẳng phải ngọn núi quê mùa mộc mạc. Tiếng thông reo vi vút như đang kể cho chúng ta nghe câu chuyện tuổi đời của chúng. Có những cây lớn hơn cả tuổi tôi và anh cộng lại. Có những cây lại đang kể về hành trình lớn lên đầy khó khăn của chúng giữa những biến động của thời tiết và những biến động trong lòng đất. Mỗi tiếng vi vút là mỗi âm hưởng vui buồn lẫn lộn. Vì sao chúng ta nghe được? Thực ra đó là một câu chuyện dài. Những tiếng thông vui là mỗi khi anh hoặc tôi được con điểm mười tròn vo trong bài làm toán. Những tiếng thông buồn là những ngày bị ba mẹ rầy la quá sức chịu đựng. Chắc câu thơ “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” là vậy chăng!




Nhưng có một điều anh và tôi đều khao khát, mà có lẽ khao khát ấy là do anh thắp lên trong tôi, đó là mong ước được chìm mình vào bên kia vách núi. Bên kia là thế giới nào đó khác xa với cảnh đẹp quen thuộc bên này núi mà ngày nào chúng ta cũng đi ngang. Bên kia là nơi có hàng ngàn con bươm bướm và chuồn chuồn bay cực đẹp. Bên kia là chỗ dòng suối chảy xuống tạo thành một cái hồ trong vắt nhìn thấy đá trong lòng hồ. Bên kia là thiên đường của cánh rừng sim như vô tận tạo nên một thảm tím rực vùng mỗi độ sim ra hoa.


“Có ai đã từng khám phá thiên đường bên kia núi chưa nhỉ?” Anh thắc mắc với tôi trong một lần leo núi. Đó cũng là lần hai thằng bạn thân nói lời chia tay. Tôi rời quê theo gia đình xuống Sài Gòn. Anh ở lại với đỉnh núi thân quen tọa lạc ở vùng trời chôn nhau cắt rốn. Tôi đáp lại thắc mắc của anh rằng: “Tớ cũng mong như cậu! Có ngày sẽ sang bên kia! Đợi… tớ đi chuyến này trở về rồi hai ta sang bên kia núi!”


Đất Sài thành nhộn nhịp mà lòng tôi buồn quá! Nhớ quê đã đành! Nhớ con đường lên núi! Nhớ hai hòn đá làm ghế giữa chặng! Nhớ tiếng thông reo! Nhớ cái đỉnh núi tuyệt đẹp! Nhớ cả nụ cười và giọng nói của anh! Đơn sơ mà duyên dáng làm sao!


Tôi cứ ngỡ tiếng ồn ào của xe cộ là tiếng suối róc rách và tiếng thông reo. Cứ ngỡ tiếng người nói cười là tiếng của anh bên tai. Cứ ngỡ cái lòng phố chật hẹp qua khung cửa sổ là bên kia vách núi. Mà sao những cảnh này ở đây khác quá! Buồn quá anh à! Có những giọt nước âm ấm rơi đâu đó trên hai bờ má đen sạm.


Chưa đầy một năm rời quê, tôi hay tin anh đã đi xa thật rồi! Tôi ngỡ ngàng thảng thốt. Tôi không về được vì kỳ thi rất quan trọng sắp tới, nhưng thi làm sao được khi nỗi nhớ anh quá da diết. Nước mắt bù cho những buổi ôn bài và nụ cười trừ thay cho những buổi học trên lớp. Mong qua kỳ thi thật nhanh và kết quả khá ổn, tôi về kịp bên anh trong những phút mới mẻ này. Chắc tôi sẽ mò lên đỉnh núi. Sẽ ngồi nơi hai hòn đá mà nhớ anh! Sẽ đứng nghe thông reo bài: “Một cõi đi về”! Sẽ đứng nơi đỉnh núi nhìn đàn bướm, đàn chuồn chuồn bay lượn. Sẽ một mình nhìn rừng tím ngát trời.


Mà chắc tôi sẽ nở cho mình nụ cười thật tươi, vì… anh đã đạt ước nguyện của mình rồi! Anh đã vượt khỏi giới hạn của thời gian. Đã tự do với những vùng trời mơ mộng. Chắc chắn… bên kia vách núi sẽ là nơi đầu tiên anh đến. Tôi tin vậy! Chắc chắn là vậy! Đạt nguyện ước rồi anh nhé! Bình yên và hạnh phúc mãi! Có ngày rồi tôi cũng về bên kia núi với anh thôi! Chờ tôi nhé!


                                                                                        Little Stream

16 tháng 3, 2023

Chuyển ngữ: NGHỆ THUẬT VÀ ĐỨC TIN - TUẦN 3 MÙA CHAY NĂM A

XEM XIN VUI LÒNG VIDEO TRƯỚC KHI ĐỌC BÀI 


Các biểu tượng Byzantine là những cánh cửa dẫn đến sự hiện diện thần linh. Các mô tả thật tuyệt vời—nền màu vàng nói lên sự thật thiêng liêng. Những khuôn mặt thanh thoát, đối xứng mời gọi chúng ta bước vào cấp trật của Thiên đàng. Đây là một sự bình an vượt qua mọi sự hiểu biết. Chúng ta đi chậm lại trước biểu tượng này và bắt gặp sự hiện diện thần linh.




Trong biểu tượng người phụ nữ bên giếng này, chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của Đức Ki-tô với người phụ nữ Sa-ma-ri, người mà theo truyền thống Chính thống giáo có tên: Thánh Pho-ti-ni, người được chiếu sáng hoặc thức tỉnh. Bà gặp Chúa Giê-su khi Người đang ngồi bên giếng. Bà kề cận với chiếc bình của mình để lấy nước. Bàn tay của Chúa Giê-su và người phụ nữ cho chúng ta thấy rằng họ đang tham gia vào cuộc trò chuyện. Trên bàn tay phải của Đức Ki-tô, ngón tay thứ ba của Ngài uốn cong vào trong, một dấu hiệu tinh tế về bản chất thiêng liêng của Ngài. Hai ngọn núi phía sau nhớ lại lời nói của họ, phản ánh rằng họ đến từ hai nền tảng khác nhau.


Trung tâm của biểu tượng là hai yếu tố kiến trúc—cái giếng và thành phố có tường bao quanh ở phía xa.


Giếng có hình dạng kỳ dị; nó thấp và có hình dạng giống như một cây thánh giá và gợi ý về một hình thức rửa tội. Nó mời gọi chúng ta đi vào cái chết của Đức Ki-tô để cùng sống lại với Ngài trong cuộc Phục sinh – chính là bản chất của Mầu nhiệm Vượt qua. Chúng ta được mời gọi đến nguồn nước hằng sống để tìm kiếm nguồn nước hằng sống đưa chúng ta từ cõi chết đến sự sống vĩnh cửu.


Đằng sau thấp thoáng một thành phố có tường bao quanh. Đó là Giê-ru-sa-lem, bối cảnh của Mầu nhiệm Vượt qua. Cánh cổng tối om như một ngôi mộ. Rèm cửa màu đỏ gợi ý về cuộc khổ nạn và cuộc đổ máu sẽ sớm xảy ra ở đó. Tuy nhiên, rèm cửa được kéo lại. Giống như phông chữ, những bức màn này đang mời chúng ta vào ngôi mộ nhưng cũng chỉ cho chúng ta lối ra.


Người phụ nữ bên giếng bước vào ngôi mộ khi nhìn nhận con đường đau khổ của cuộc đời mình. Đức Ki-tô soi sáng tâm hồn bà. Ngài mời bà vượt ra khỏi cuộc sống hiện tại. Bà bước vào ngôi mộ của sự thật này và nhận lãnh nước sự sống. Bà được biến đổi từ một người bị ruồng bỏ thành một nhà truyền giáo. Bà sẽ mang lại niềm vui cho cộng đoàn của mình và thúc đẩy họ theo bà đến với Đức Ki-tô. Nhờ gặp gỡ Đức Ki-tô, Thánh Pho-ti-ni tìm thấy ánh sáng trong bóng tối của mình, một ánh sáng mà bà sẽ chiếu cho người khác.


Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome

Chuyển ngữ: Little Stream

Ảnh: Moon

06 tháng 3, 2023

Chuyển ngữ: NGHỆ THUẬT VÀ ĐỨC TIN - TUẦN 2 MÙA CHAY NĂM A

 Trong Cuộc biến hình (Transfiguration), Raphael kể một câu chuyện về sự mặc khải, đức tin và sự chữa lành. Họa sĩ cho thấy khoảnh khắc Mặc khải trên Núi Ta-bo làm sáng tỏ khung cảnh cuộc chữa lành một cậu bé bị quỷ ám như thế nào. Đó là câu chuyện trong Tin Mừng ngay sau biến cố Biến Hình của Chúa Giê-su. Thiên đàng chiếu sáng khung cảnh phía dưới khi Đức Ki-tô, được bao bọc bởi đám mây sáng và có Mô-sê và Ê-li-a ở hai bên, là đỉnh điểm của khung cảnh. Ở phía dưới, chúng ta thấy các môn đệ và thậm chí, chúng ta thấy những người khác đang tụ tập để xem cậu bé bị quỷ ám và gia đình của cậu. Từ trên xuống dưới, màu sắc chuyển từ ánh sáng mát mẻ, thiên đường sang tông màu đất, ấm hơn.


Bức tranh “Cuộc biến hình” của hoạ sĩ Raphael



Raphael cho chúng ta thấy các môn đệ khi họ gặp gia đình tuyệt vọng. Khuôn mặt cậu bé nhăn nhó vì đau khổ. Thân thể cậu bé gần như bị xé toạc, một tay giơ lên và một tay hạ xuống, như thể cậu bé bị kéo về cả Thiên đàng và Địa ngục. Raphael mô tả gia đình như một nhóm tập trung. Cường độ và bàn tay hướng lên của họ báo hiệu hành động đức tin thống nhất của họ. Đối diện với họ, các môn đệ bị choáng ngợp bởi thách thức—khuôn mặt và cơ thể của các môn đệ hướng về mọi phía, thể hiện sự lộn xộn của họ.


Giữa các môn đệ và gia đình, Raphael đặt một hình tượng phụ nữ độc nhất. Đức Ki-tô thống trị bức tranh ở trên cao, nhưng người phụ nữ này đứng thứ hai về tầm quan trọng trong bức tranh. Người phụ nữ là trung tâm trong câu chuyện của cậu bé— cô ấy là một phần của khung cảnh trong tranh nhưng cô ấy không phải là một nhân vật trong câu chuyện Tin Mừng. Màu sắc mát mẻ và tươi sáng của hình ảnh người phụ nữ, giống như hành động thần linh ở trên đỉnh bức tranh, khiến người phụ nữ ở vị trí phía dưới cũng trở nên khác biệt. Người phụ nữ là một biểu tượng mời gọi chúng ta đi vào ý nghĩa sâu sắc hơn.


Trong tác phẩm của Raphael, hình thể nhân vật nói với chúng ta một cách sâu sắc. Cơ thể của người phụ nữ này bị xoay, vặn người uốn khúc đồng thời thu hút các môn đệ, gia đình và chúng ta, là những khán giả. Trong cái xoay mình của người phụ nữ là sự kết hợp của một hướng gặp một hướng khác; đến lượt người phụ nữ là một sự thay đổi hướng đi, một con đường mới.


Người phụ nữ là đức tin, đáp lại mặc khải của Thiên Chúa trên cao. Người phụ nữ mang đến cho các môn đệ thành phần quan trọng còn thiếu trong công việc của họ. Người phụ nữ là cầu nối giữa hai câu chuyện.


Cơ thể bị xoay và vặn khúc của người phụ nữ cũng mang đến sự chuyển đổi tâm trí, sự thay đổi của trí và tâm. Người phụ nữ vọng lại những lời thiêng liêng từ trên cao: “Đây là Con yêu dấu của Ta; hãy nghe lời Người.” Với niềm tin và ân sủng, tâm hồn của chúng ta cũng có thể quay lại.


Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome

Chuyển ngữ: Little Stream