19 tháng 10, 2015

Suy tư: TÌNH YÊU TRẢI DÀI CỦA THIÊN CHÚA

“Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; Như vậy Người thử thách anh em để cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. Người đã bắt Anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là cuả ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra. Bốn mươi năm qua, áo Anh em mặc đã không rách, chân Anh em đã không sưng lên. Suy nghĩ lại, anh em phải nhận biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của Anh em, giáo dục Anh em như người giáo dục con mình. Anh em phải giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của Anh em, mà đi theo đường lối của Người và kính sợ Người” (Đnl 8, 2-6) 

Đoạn Kinh Thánh trên được trích từ trích đoạn của sách Đệ Nhị Luật, với tựa đề “thử thách trong sa mạc” Nhưng khi đọc vào tôi lại có suy nghĩ khác, suy nghĩ về một Thiên Chúa đầy yêu thương và vẫn luôn dõi theo nhân loại trong từng nhịp tim, hơi thở để qua đó, con người nhận ra cách rõ hơn Chúa đã yêu thương nhân loại như thế nào.

Không như thời Tân ước, con người được nhìn thấy cách rõ ràng hơn một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, được diễm phúc lắng nghe và học hỏi nhiều điều từ Thiên Chúa,và may mắn hơn nữa khi thời kỳ này con người được thấy tận mắt những phép lạ từ tay Chúa Giê-su,đó là một hông ân to lớn. Nhưng khi nhìn về Cựu Ước, dường như Thiên Chúa là “Đấng ẩn mình”, Ngài chưa bao giờ Ngài xuất hiện trước con người, nhưng tất cả phải qua các trung gian là các ngôn sứ, các tiên tri để thông truyền điều Thiên Chúa truyền dạy cho dân chúng. Nói đến đây tôi lại nhớ về một cuộc hành trình dài và gian nan của Dân Israel xưa trong hành trình về đất hứa, họ hoàn toàn không biết vì sao Đức Chúa lại yêu thương và cho họ thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, họ cũng chưa hiểu được hành trình về đất hứa sẽ như thế nào, gần hay xa, khó hay dễ và có chắc mình sẽ về đến nơi đến chốn hay không? Và sự xuất hiện của Mô-sê đã kịp thời để dẫn dắt họ dưới sự lãnh đạo của Đức Chúa. 

Mở đầu đoạn trích, Mô-sê đã nhắn đến dân Israel nhớ lại một cuộc hành trình 40 năm lang thang trong sa mạc, bao nhiêu là những cực khổ, khó khăn và thử thách. Nhưng dân Chúa đã không bước đi một mình lầm lũi trong đêm tối nhưng Đức Chúa vẫn luôn đồng hành và dấn bước cùng họ mặc dù họ không hề nhìn thấy Đấng đang hiện diện cùng họ. Mô-sê muốn con cái Is-ra-el phải ghi tạc điều này trong lòng nên Mô-sê đã nói rằng:  “Phải nhớ lại con đường mà Đức Chúa đã dẫn anh em đi”, thật ý nghĩa cho cụm từ “phải nhớ” tại sao không phải là “nên nhớ” hay “hãy nhớ”, có lẽ vì trên “con đường” ấy đã có lúc dân Chúa muốn nản lòng chối bỏ cuộc hành trình này, cũng lắm lúc oán trách, hờn giận và thậm chí quay lưng với Đức Chúa để thờ các thần ngoại bang, rồi những cơn trừng phạt, cơn nổi giân của Đức Chúa với dân, nhưng qua những lời nài nỉ của Mô-sê, Người đã xua đi cơn giận và tiếp tục dẫn dân bước đi trong tình yêu thương của Người. Mô-sê đã nhắc lại những thử thách ấy một cách chi tiết hơn là cái đói trong sa mạc. 



Có lẽ với con người, cái ăn là một trong những nhu cầu thiết yếu, ăn để sống, vì thế mà dân đã oán trách Đức Chúa, bởi khi còn làm nô lệ cho người Ai Cập, dù họ làm việc cơ cực, nhưng không ngày nào họ phải đói, luôn có gì đó để vào bụng, nhưng khi nghe lời Đức Chúa, cái đói khủng khiếp mà chẳng thấy gì để ăn, không biết lúc ấy Đức Chúa có buồn vì những lời than vãn này không, tôi tự nhủ thầm có lẽ Người cũng đang tự nói với mình: “Ôi dân ta sao lại trách cứ ta nặng lời như thế!”,  và biến cố man-na từ trời rơi xuống đã khiến dân phải tin vào Đức Chúa, vào quyền năng của Người, như vậy Đức Chúa đã không bỏ rơi dân khi họ than trách Đức Chúa vì Mô-sê đã nói rõ: “Người thử thách Anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không”. 

Thật đúng là những thử thách của Thiên Chúa không thể ngờ được, vì có những thử thách rất dễ dàng, nhưng cũng có những cuộc thử thách quá khó, và con người lúc không vượt qua được nên đã thốt nên lời oán trách Đức Chúa. Điểm yếu của con người ở đây là chỉ thấy những thử thách ở trước mắt chứ không nhìn thấy ơn Chúa đã trải dài trong suốt hành trình ấy. Mô-sê đã nhắc lại để họ không quên đi những ơn trải dài ấy “bốn mươi năm qua, áo anh em mặc đã không rách, chân anh em đã không sưng lên” Nếu chiếc áo rách đi thì lấy gì bảo vệ họ khỏi cái nóng chết người của sa mạc vào ban ngày, và cái lạnh kinh khủng khi đêm về; nếu chân họ bị sưng lên thì liệu họ có thể tiếp tục được hành trình về đất Chúa Hứa hay không. Có lẽ điều mà Mô-sê muốn nhắn nhủ đến dân ở đây không phải là cái ăn, cái mặc nhưng điều ông muốn nhắn đến dân ở đây là hãy biết nhìn vào tình thương của Thiên chúa trong những điều bình thường nhất trong cuộc sống, đừng chỉ nhìn vào những thiếu thốn hiện tại  mà kêu lên những thời oán trách làm đau lòng Đức Chúa. Nói cách rõ hơn là Đức Chúa đang giáo dục dân mà theo Mô-sê là “như một người giáo dục con của mình”, tôi đã từng nghe có ai đó nói rằng “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” phải chăng Đức Chúa cũng đang giáo dục con cái Người giống như thế? 

Người yêu thương nhưng không nuông chiều, yêu thương nhưng không để con cái mình có thái độ ỷ lại vào Cha của mình. Tôi tin chắc rằng lối giáo dục của Người là lối giáo dục hoàn hảo nhất, Người nuôi nấng, ấp ủ dưỡng dục con người từ lúc thai nghén trong lòng mẹ, và gửi đến cho con người những thử thách để họ vượt qua, nhưng không hề bỏ rơi mà cùng đồng hành bên con người trước những khó khăn thử thách ấy, vì những lúc dường như dân Israel rơi vào tuyệt vọng nhất thì Người ra tay cứu họ. Nhờ thế mà Đức Chúa đào luyện họ trở nên can trường, can đảm và nơi huấn luyện niềm tin mạnh mẽ của họ vào Thiên Chúa. Người quả là một người cha nhân hậu, một nhà giáo đại tài với đường lối giáo dục khôn khéo của riêng Ngài. Nhắc lại như thế, Mô-sê muốn dân Chúa hãy biết nhận ra tình yêu thương Thiên Chúa vẫn đã, đang và mãi mãi luôn trải dài trên họ từ thế hệ này sang thế hệ khác và tình yêu ấy chẳng hề thay đổi bao giờ.

Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra tình yêu thương của chúa cũng đang trải dài trong cuộc đời con, để những khi con gặp khó khăn và thử thách trong cuộc sống, con sẽ nhận ra rằng đó là cách Chúa dạy con, huấn luyện đức tin của con, và con sẽ vui lòng đón nhận những thử thách ấy. Nhưng nếu có lúc con đuối sức, quỵ ngã thì xin Chúa giúp sức cho con Chúa nhé! Vì con tin rằng Chúa vẫn luôn yêu thương con và gìn giữ con trong cánh tay của Người. 

                                                                                    Little Stream


15 tháng 9, 2015

Suy tư: LỄ MẸ SẦU BI (15/9/2015)


“Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người…” (Ga 19,25-27), tôi đã dừng lại thật lâu để chiêm ngắm hình ảnh Đức Ma-ri-a qua đoạn Kinh thánh ngắn ngủi này, và thầm ước mong xin Mẹ cho mình được cảm nếm phần nào nỗi đau của Mẹ.

“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha.
Nước biển mênh mông, không đong đầy tình mẹ,
Mây trời lồng lộng, không phủ kín công cha.”



          Câu thơ mà tôi cũng không nhớ mình đã đọc tự bao giờ, nhưng những vần thơ đơn sơ và sâu sắc ấy đã ghi sâu trong trí nhớ của tôi. Chợt nhìn về hình ảnh Mẹ Ma-ri-a chiều hôm ấy, tôi mới phần nào thấu hiểu tình mẹ thương con là bao la và cao vời khôn ví của Mẹ. Qua những giây phút nguyện cầu, tôi chợt nghiệm ra Đức Mẹ quả thật là một người can đảm và luôn trung thành theo thánh ý Thiên Chúa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nếu Đức Giê-su đã lo buồn đau đớn khi sắp “uống chén” mà Chúa Cha trao phó, đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống, thì giây phút này tôi nhìn về hình ảnh của Mẹ, dường như những giọt nước mắt đau khổ của Mẹ cũng rơi xuống như những giọt máu và chảy ngược vào tận trái tim của Mẹ.

          Nếu chỉ đọc đoạn Kinh Thánh trên, có lẽ tôi chưa hiểu rõ về những đau khổ và khó khăn của Mẹ, nhưng khi đọc lại cả cuộc đời của Mẹ, tôi mới thấy người phụ nữ nhỏ bé ấy đã chọn và đi trên “con đường thánh giá” như con chí ái Mẹ - con đường mà không ai dám chọn. Người phụ nữ ấy can đảm vì khi sinh con ra trong những hoàn cảnh nghèo khó, dường như mọi niềm tin đều bị dập tắt, nhưng Mẹ vẫn vững niềm tin vào Thiên Chúa và nuôi dạy con nên người; can đảm khi con mình bị người ta khi dễ, chê bai và xua đuổi, nhưng Mẹ vẫn âm thầm ủng hộ con đường mà con đã chọn là làm đẹp lòng Cha trên trời; can đảm khi con bị kết án oan, Mẹ không lên tiếng, nhưng chỉ âm thầm và phó thác trong tay Thiên Chúa; can đảm khi bao nhiêu môn đệ thân tín bỏ chạy tán loạn, Mẹ vẫn âm thầm theo con bước lên đỉnh đồi Cal-va-ri-o; và can đảm khi bao nhiêu con người xa lánh và sợ hãi, nhưng Mẹ vẫn đứng dưới chân Thánh Giá – bên con trong những giây phút cuối cùng, cho đến khi con trút hơi thở cuối cùng trên Thánh Giá. Tôi tin chắc rằng, duy chỉ Đức Ma-ri-a mới dám làm những điều ấy, bởi như bao người mẹ khác, có lẽ họ đã ngất đi trước nỗi đau khôn tả, hay có những phản ứng lại, nhưng với Mẹ thì tất cả là Thánh Ý mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện trên cuộc đời Mẹ và con của Mẹ.

          Nếu có ai đó hỏi rằng: “Đức Ma-ri-a có đau khổ khi Con chí ái Mẹ chịu đóng đinh vào Thập Giá?”. Với một đức tin bình dân, tôi dám thưa rằng Mẹ không những đau khổ mà là đau đến tột đỉnh của sự đau khổ. Bởi lẽ Đức Ma-ri-a cũng là một người phụ nữ nhỏ bé, đơn sơ và bình thường như bao người phụ nữ, Mẹ cũng biết đau, biết khóc khi đau khổ, biết cười khi hạnh phúc và hơn thế nữa là biết kính sợ Thiên Chúa; Chính vì thế, khi nhìn Giê-su – Con chí ái chịu đóng đinh vì tội lỗi nhân thế chắc chắn nỗi đau ấy có thể được diễn tả qua lời của cụ Si-mê-on rằng: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35b), vâng “lưỡi gươm” đó chính là nỗi đau tột cùng của người Mẹ khi tận mắt nhìn người con mà mình đã rứt ruột sinh ra đang trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.

          Nhưng nỗi đau của Mẹ không dừng lại ở nỗi đau thể lý như con người, cũng vì thế mà ngày lễ Mẹ Sầu Bi không có nghĩa là Mẹ đau buồn vì sự mất mác to lớn, nhưng sự đau buồn ấy là để hiệp thông cùng chính nỗi đau mà con của Mẹ đang nhận lãnh trên thập giá, Mẹ đang hiệp thông vào chính công trình cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, và Mẹ cũng đang giúp cho nhân loại nhận ra những gì mà nhân loại đã và đang làm cho Giê-su – Con chí ái Mẹ. Vì thế, tôi vẫn nhớ có ai đó nói rằng: “ Đức Ma-ri-a dù đứng dưới chân Thập Giá, nhưng cũng đang lãnh nhận nỗi đau khổ của con như đang chịu đóng đinh trên Thập Giá cùng con mình vậy”. Và sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập giá cũng là đại diện cho cả nhân loại dưới chân Thập giá, nơi đó Mẹ đang thay nhân loại xoa dịu nỗi đau tột độ của Giê-su, để Người bớt đi phần nào sự cô đơn, tủi hổ và đau đớn trước những hờ hững của nhân loại.

          Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con cảm nếm được phần nào nỗi đau mà Mẹ đã nhận lãnh trong ngày con của Mẹ chịu chết. Xin cho con biết nhận ra những tội lỗi của mình, là nguyên cớ cho sự đau đớn của Hai Trái Tim cực thánh. Xin Mẹ đồng hành cùng con. Amen.

Little Stream

13 tháng 9, 2015

Suy tư: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ


"Chúng con thờ lạy và ngợi khen Thánh Giá Đức Giê-su Ki-tô!
Vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ."


Đó là những câu kinh quen thuộc mà tôi vẫn hay nghe Bà Ngoại đọc cho nghe vào mỗi dịp Tuần Thánh, những lời gẫm thật ý nghĩa và đã ăn sâu vào tâm hồn tôi tự bao giờ cũng chẳng rõ. Có lẽ khi cái tuổi còn thơ ấu, tôi vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của Thánh Giá, nhưng khi dần lớn lên, được có cơ hội học biết, tôi thêm hiểu và yêu mến Thánh Giá hơn; và cũng chính nhờ thế, tôi mới hiểu được vì sao Bà Ngoại tôi lại vẫn hay đọc những lời kinh và yêu mến Thánh Giá nhiều đến như thế!




Chắc hẳn đây là một huyền nhiệm khi Đức Giê-su Ki-tô nằm lên cây Thập Giá ấy, bởi trong thời gian bấy giờ, án tử thập giá là án dành cho kẻ tử tội mang án nặng nhất, sự sỉ nhục to lớn nhất và đau đớn nhất; nhưng chính khi Đức Giê-su ngã lưng lên cây gỗ đơn sơ ấy, nó đã trở nên Thánh Giá, trở cây cây cứu chuộc nhân loại khỏi muôn vàn tội lỗi.


Nhưng khi nhìn hình ảnh Thánh Giá với một con người nhỏ bé trên đó, thật sự vẫn chưa đủ để nếm cho kì hết những đau đớn mà Giê-su phải chịu vì nhân loại, khi chọn con đường Thánh Giá- Con đường Tình Yêu ấy, Chúa đã phải trải qua bao nhiêu biến cố, bao nhiêu khó khăn và bao nhiêu là sự chống đối, những lần Pha-ri-sêu và phái kinh sư tìm cách gài bẫy Chúa để tìm cớ giết Người, những lần dân chúng không chấp nhận một Giê-su là con bác mộc Giu-se và bà Maria nội trợ; Và chính khi chọn con đường Thánh Giá, Giê-su đã rong ruổi 33 năm nơi dương thế, hết nơi này đến nơi nọ, cũng có những phút giây hạnh phúc khi có một người trở về với Người, những cũng lắm lần đau khổ khi người ta hắt hủi, không đón nhận Người và thậm chí là phản bội.


Cái giá cuối cùng cho con đường Thánh Giá là cái chết đầy đau thương và nhục nhã nơi cây gỗ dành cho tội nhân. Tôi vẫn nhớ Bà Ngoại có đọc câu kinh này:" Ôi Thánh Giá là giường Cha cả nằm khi sinh thì!", một ông vua nơi trời cao nay xuống thế chấp nhận những sự đau khổ tột cùng của con người, mão gai là vương miện, trần truồng làm long bào, Thánh Giá là giường gối lưng, những lời tha thứ là những Phán Quyết cuối cùng.


Lạy Chúa Giê-su! Xin tạ ơn Chúa vì chính tình yêu thương mà Chúa đã dành cho nhân loại, tất cả được nhân loại nhận ra nơi con đường Thánh Giá mà Chúa đã đi, cái giá "Thánh Giá" mà Chúa phải trả vì chính tội lỗi con người. Ước chi qua mỗi ngày sống, con luôn biết nhận ra tình yêu thẳm sâu ấy, và đáp trả lại cách cân xứng hơn nữa.


Little Stream


26 tháng 8, 2015

Thơ: TÌNH THẬP GIÁ


TÌNH THẬP GIÁ

Thương Giê-su chiều hiến thân Thập Giá,
Để giao hòa muôn tội lỗi nhân gian,
Vì tình yêu Ngài quá đỗi ngập tràn,
Để con người hưởng muôn ngàn hạnh phúc.

Ôi Giê-su! Một chiều con dừng lại,
Mắt nhìn lên Thập Giá Chúa trên cao,
Tay vẫn vươn lên, đôi môi vẫn thì thào:
“Ta yêu con, yêu con nhiều lắm đấy!”

Để cuộc đời mãi mãi luôn nồng cháy,
Lửa tình yêu Giê-su thắp chiều nao.
Nguyện đời con là tình khúc dâng trào,
Hòa tấu mãi tình Người trên Thập Giá.



Little Stream

Kỷ niệm Linh Thao

Phanxico 26/08/2015

10 tháng 5, 2015

Tản mạn: NGÀY CỦA MẸ


Mẹ kính yêu của voi con!

"Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào...." bài hát mà con đã nghe nhiều lần lắm rồi, từ khi con còn bé đến bây giờ. Con vẫn nhớ lúc con khoảng 6 hay 7 tuổi, có lần con với mẹ cùng hát karaoke bài này, bỗng dưng con bật khóc và ôm chầm lấy mẹ rồi mếu máo nói: "Mẹ ơi! Con thương mẹ lắm", lúc ấy lòng con như trào dâng lên bao nhiêu cảm xúc. Và thời gian cứ thế trôi qua, nhiều lúc con đã quên đi cái ôm trong nước mắt năm xưa.

Con vẫn hay nghe nhiều người nói rằng: "Đi một ngày đang, học một sàng khôn", không biết đến giờ đây, với cái tuổi 20, con đã có bao nhiêu cái sàng khôn, có lẽ không quá nhiều những không đến nỗi quá ít, nhưng có lẽ con chưa có cái "sàng khôn" nào dành riêng cho người mẹ yêu dấu của con. Mẹ ơi! Con cám ơn Mẹ đã nuôi con khôn lớn, cám ơn những giọt sữa cho con những ngày thơ ấu, cám ơn những giọt mồ hôi rơi xuống mỗi ngày khi chăm sóc cho con, cám ơn những giọt nước mắt mỗi khi con làm mẹ buồn lòng, cám ơn những tiếng yêu thương, những lời dạy dỗ để con có được ngày hôm nay.



Vào ngày này 3 năm trước, con đã lắng nghe lại giai điệu yêu thương này, và con đã bật khóc, con khóc vì nhớ mẹ.....Người con lần đầu tiên xa gia đình, con nhớ những người thân yêu, đã luôn yêu thương, dạy dỗ và luôn ủng hộ con trên bước đường mà con chọn; Con khóc vì thương mẹ, 12 năm ngồi ghế nhà trường, có lẽ mẹ phải còng lưng, vất vả để nuôi con, giờ con lại bước vào cánh cổng đại học, thì chi phí nặng hơn gấp bội. Con hiểu được ưu tư của ba mẹ, con thấy sự lo lắng hằn lên trán ba mẹ. Nhiều lúc con đã có ý muốn thoái lui, nhưng mẹ nói với con rằng: "Con cứ lo học hành cho tới nơi tới chốn, mẹ đủ sức lo cho con mà!" Và con hiểu cái sự "đủ sức" ấy đã lấy đi bao nhiêu công lao mà mẹ dành cho con.

Nhiều lúc con thấy bạn con có ước mơ: "Sau này học ĐH xong, tao tìm một công việc rồi kiếm thiệt nhiều tiền mà phụng dưỡng ba mẹ lúc tuổi già". Con nghe thì miệng vẫn cười, nhưng dường như trong lòng đang trào ra từng giọt nước mắt, bởi lẽ mẹ chẳng thể trông mong gì nơi con trai cả mang tiền về nuôi ba mẹ, hay trông chờ nó về nuôi mình 1 hay 2 năm tuổi già, hay phụ giúp em nó làm vườn tược. Nhưng con tin mẹ luôn là người hiểu con nhất, mẹ biết ước mơ của con, biết con đường mà con chọn, và dù xa nhưng con không hề quên hình ảnh người mẹ hiền yêu dấu của con, mỗi ngày con vẫn nhớ đến mẹ trong lời câu nguyện của con mỗi ngày. Con tin Chúa sẽ luôn ban cho mẹ thật nhiều ơn lành, vì Chúa biết mje cần gì.

"Đêm đêm con thắp đèn trời,
Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con".

Con chỉ còn hơn một năm nữa sẽ kết thúc chương trình đại học của mình, và con biết thời gian xa mẹ có lẽ sẽ gần hơn. Giờ đây, khi con nghe lại bài hát "lòng mẹ", con trai của mẹ không khóc như khi là chàng trai năm nhất ĐH khi xa gia đình, nhưng con nhớ về mẹ và cố gắng gầy dựng cho mình một ý chí, để con dám bước tơi và thực hiện những điều con mơ ước, những điều mẹ luôn kỳ vọng nơi con. Nếu có ai hỏi con trong cuộc sống trần gian, tình cảm nào là cao quý nhất? Con sẽ không ngại trả lời là chính "tình mẹ dành cho con".

Con đang từng ngày bước đi, con xa vòng tay của mẹ, xa tiếng nói thân thương mỗi ngày dạy dỗ, nhưng con luôn có hình ảnh của Mẹ trong tim, để làm điểm tựa, làm sức bật cho mình trong những hành trình sắp tới. Con vẫn nhớ câu thơ mà con đã được học qua của nhà thơ Chế Lan Viên:

"Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời lòng mẹ vẫn thương con."

Con cám ơn Mẹ thật nhiều vì tình thương cao cả mà mẹ đã dành cho con suốt 20 năm qua, dù gần hay xa về khoảng cách địa lý, nhưng con vẫn gặp mẹ mỗi ngày nơi bàn cầu nguyện của con mỗi ngày. Hai mẹ con ta tuy xa mà gần phải không Mẹ? Mẹ của con mãi luôn yêu đời, cười vui, bình an, hạnh phúc mẹ nhé!

Nhớ mẹ rất nhiều
Chú Voi con của Mẹ!

31 tháng 1, 2015

Tản Mạn: ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN

Trải qua đời sống hơn 2 năm dưới mái nhà ứng sinh (NUS), có lẽ đây không là một khoảng thời gian dài, những cũng không quá ngắn để tôi cảm nghiệm về đời sống cộng đoàn, một đời sống với anh em tôi, những con người cùng chung ý hướng với tôi, tất cả tìm về một Thiên Chúa tình yêu đày lòng yêu thương, nhân hậu và giàu lòng thương xót.

Khi nói về đời sống tập tu, “tôi cảm thấy thật bình an và hạnh phúc” đó là tất cả những ngôn từ mà tôi có thể nói về thời gian chập chững bước vào NUS và đến tận bây giờ, tôi nhận được sự nâng đỡ, hướng dẫn và yêu thương mà anh em dành cho tôi, từ một con người hoàn toàn mới bước vào đất Sài Thành, mới xa gia đình và cũng mới với cái định nghĩa của từ “tu” nữa, anh em đã hướng dẫn tôi như một người em út với tất cả lòng yêu thương. Và đến những giây phút hiện tại, với tôi Sài Gòn không lạ lẫm nữa, ít ra tôi cũng học biết một vài con đường mà tôi hay đi qua,biết cách bắt xe buýt, biết cách hướng dẫn cho những anh em cũng mới vào NUS như tôi cách đây hơn 2 năm về trước.


Tôi nhớ thật rõ, có lần Chú Sáu chia sẻ với chúng tôi rằng: “Sống cộng đoàn trong Dòng Tên là một sứ mạng”. ban đầu tôi vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thật sự của “sứ mạng”, nhưng đến giờ đây, tôi đã hiểu phần nào cái “sứ mạng” ấy. Có lẽ sống cộng đoàn không là một “khung tròi màu hồng” như tôi nghĩ, bởi lẽ mỗi anh em chúng tôi đến từ những vùng miền khác nhau trên đất nước, với phong tục, tập quán khác nhau, đến tính cách cũng khác nhau. Với những sự khác nhau ấy đã tạo nên cho tôi một bức tường ngăn cách. Có những xung đột trong đời sống cộng đoàn khi anh em chúng tôi không hiểu nhau, khi không chấp nhận những nhược điểm của nhau nên những vấn đề không hay nảy sinh đã tạo một khoảng cách lớn để anh em chúng tôi hiểu nhau. Những lúc ấy, cảm xúc thường trực mà tôi cảm nghiệm được là sự cô đơn, thất vọng và thậm chí là muốn từ bỏ ước mơ ơn gọi của mình nữa, trong sự thinh lặng suy nghĩ lại, tôi chợt nhận ra “sứ mạng” cộng đoàn là đây, bởi lẽ cái tôi cá nhân của tôi quá cao, những thói kiêu căng, ít kỷ và không dám mở lòng đón nhận anh em tôi. Nhưng sống cộng đoàn cũng là một cơ hội lớn, để tôi dám sửa đổi con người nhỏ bé của chính mình.

Lạy Chúa, xin ban cho con quả tim của Chúa, để con dám sống, dám chia sẻ với anh em con, dám đón nhận anh em con với tấm lòng rộng mở. Nguyện xin Chúa dạy con biết nhìn thấy đây là cơ hội để con trở nên trưởng thành hơn và xứng đáng hơn với con đường mình đã chọn.


                                                                                    Little Stream


24 tháng 1, 2015

Tản mạn: THƯ CỦA THÁNH GIU-SE

Giê-su! Con của tía!

Không biết con có dịp được đọc bức thơ này của tía không? Vì giờ con đang bận rộn với công việc đi rao giảng Tin Mừng, nhưng tía vẫn quyết định viết bức thơ này cho con, để khi nào con về thăm nhà thì đọc, vì muốn gởi đi lắm nhưng không biết con ở đâu mà gởi bây giờ, với lại tía giờ tuổi đã cao rồi, sợ tới lúc con trở về tía không có dịp gặp con nữa nên đôi dòng để lại cho con.

Con yêu quý của tía, tía nhớ nhất là cái ngày má con sinh con ở Bê-lem, con biết không, lúc đó tía với má con buồn lắm, vừa buồn, vừa tủi cho thân phận. Tía thiệt sự không hiểu được ý của Thiên Chúa là gì, nhưng Người đã hứa cho tía với má làm người sanh dưỡng, dạy dỗ con - Ngôi Hai Thiên Chúa, tía cứ nghĩ con Thiên Chúa chắc phải tốt lành, cao sang và quý phái lắm, và tía má cũng phần nào nở mặt nở mày. Nhưng ai dè cái cảnh phải dắt má con đi giữa trời đông lạnh giá, và con lúc đó con nằm gọn hơ trong bụng của má con, thương má con là thân phận người nữ, không khỏe bằng tía, nên lúc lên tới Giu-đê, tía tranh thủ đi kiếm nhà trọ cho má con nghỉ lưng, nhưng họ thấy tía má nghèo mà biểu môi, đuổi tía má đi cho khuất mắt mà không cho tá túc, má con lúc đó nước mắt lưng tròng, tía ôm má con vào lòng mà ruột đau như cắt, tía vội an ủi má: “Không sao đâu bà, để tui tìm thử quán trọ khác xem, chắc giá rẻ hơn và hy vọng họ tốt với mình hơn”, suốt đêm chẳng quán trọ nào nhận hai vị khách nghèo nàn như tía má, cuối cùng phải nhờ chuồng lừa của một ông lão tốt bụng, đó cũng là nơi má con sinh con đó.



            Với vị thế là một người chồng, người cha, lúc đó tía cảm thấy xấu hổ lắm, xấu hổ với Thiên Chúa vì Người đã trao cho tía trách nhiệm một người chồng và một người cha, nhưng tía đã không tìm được cho má con và con một nơi nghỉ lưng đàng hoàng, trong khi má con đã đến ngày sinh nở. Xấu hổ với má con vì người chồng già này chẳng làm gì nên tích sự, cứ xin hết ngõ này, ngách nọ, nhưng phương án cuối cùng là nơi chuồng lừa hôi hám; nhất là cảm thấy xấu hổ với con vì không tìm được chỗ để con trai bé nhỏ của tía nằm trong đêm giá lạnh, khi má sinh con ra đời. Có lẽ khi đó tía cũng đang trách thầm Thiên Chúa nữa, vì sao Ngài để cho Con của Người phải chịu cảnh nghèo hèn như thế? Ngồi nhìn má con thở hổn hển, tía lo lắm vì mình chẳng biết làm gì trong lúc vợ mình sinh con, cứ luống cuống lên nhà gà mắc đẻ vậy, ruột thì rồi bời, lúc đó bao nhiêu câu hỏi hiện lên trong đầu tía “không biết bả sinh con có bình an vô sự không? Không biết thằng nhỏ có sao không?” Rồi tía thầm thì với Thiên Chúa “Chúa ơi! Chúa thương đừng để cho vợ con có mệnh hệ gì, bả mà bị gì chắc con sống không nỗi”.

Nhưng Giê-su ơi! Lúc thấy con chào đời bình an vô sự, thì bao nhiêu lo lắng, nỗi xấu hổ tan biến hết, thay vào đó là sự vui mừng khôn tả. Con lúc mới chào đời kháu khỉnh, dễ thương lắm, má con thì nghỉ ngơi vì đã kiệt sức, còn tía thì bồng con trên đôi tay, con còn nhỏ hỏn nhưng lại mang đến cho tía hơi ấm trong đêm đông đó. Chợt trước mặt tía, có muôn vàn ánh sáng lóe lên, tía vội che mặt đi vì ánh sáng chói vào mắt, từ từ mở cánh tay thì chợt nhận ra đó là các vị Thiên Thần, trên người khoác chiếc áo trắng tinh, cái màu trắng mà thợ giặt ở trần gian chắc không giặt được đâu. Các Thiên Thần vang lên câu hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa Thương”, tâm hồn tía chợt bình an trở lại, giờ thì tía xác tín rằng: con là con Thiên Chúa đã giáng trần, tía thêm lòng trông cậy vào Thiên Chúa hơn. Má con lúc đó đã khỏe lại, ngồi nhìn con rồi mỉm cười với đôi môi nhợt nhạt, cho con bú xong rồi đặt lên cái máng nhỏ đã được phủ rơm trước, đắp cái khăn mỏng lên thân hình bé xíu để giữ ấm cho con, thêm hơi lừa phả vào, giúp con ấm hơn vào cái đêm lạnh lẽo ấy. Lúc đó, tâm hồn người cha như tía phần nào được yên ủi, xoa dịu. Từ đàng xa, thấp thoáng ba chàng thanh niên, trông ăn mặc chắc cũng thuộc hàng khá giả.

-“Mấy ông đi đâu đây?” Tía vội hỏi.
-“Chúng tôi là những nhà đạo sĩ, từ nơi xa xôi theo ánh sao chỉ đường, đến đây bái lạy Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần”

Chắc con không biết trong lòng tía lúc đó vui như thế nào đâu, các nhà đạo sĩ vô bái lạy con, rồi dâng cho con những món quà quý giá. Tía chợt ngộ ra đây là kế hoạch mà Thiên Chúa đã định sẵn, lúc đó tía ân hận hết sức vì đã nghi ngờ chính Thiên Chúa. Giờ ngồi suy nghĩ lại, tía càng thêm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào tình yêu và kế hoạnh mà Người dành cho con, cho tía và má. Viết lại những dòng suy nghĩ, để nhìn về kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời tía và má, cũng nhìn về con và tự hào vì mình được chọn là cha nuôi của Con Thiên Chúa.

Tía không biết tương lai của con như thế nào, nhưng khi nhìn về hiện tại, tía tự hào về việc con làm, dù rằng có lúc con bị chống báng dữ dội, bị đả kích dữ dội, hay có lúc bà con trong xóm đồn rằng con bị “man man” nữa. (Mc 3, 20-21) Nhưng tía vẫn tin việc con đang làm là Thánh ý của Thiên Chúa, kế hoạch mà Chúa Cha đã ban tặng cho con, vì qua biến cố con chào đời, tía mới biết kế hoạch của Thiên Chúa là những điều bí ẩn, và tía chỉ cần tin tưởng và phó thác mà thôi. Tối nào tía má cũng đọc kinh cầu nguyện cho con: “Xin Thiên Chúa thương gìn giữ thằng bé Giê-su nhà con được khỏe mạnh hồn xác, và chu toàn thật tốt kế hoạch mà Ngài định sẵn cho nó”. Vì với tía và má, con luôn mãi là Giê-su bé bỏng ngày nào trong vòng tay của tía má.

Mong con của tía luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và vững vàng trên hành trình rao giảng. Nguyện xin Cha con trên trời luôn giữ gìn con.
Tía của con
Giu-se
        
P/s: Cái thằng, đi rồi không chịu về thăm tía má gì hết, tranh thủ có dịp ghé qua cho tía má thấy mặt là tía má vui rồi nghe con. Nói nhỏ ……chừng nào về báo tía hay trước, để tía năn nỉ má con cho tía mần con gà luột rồi tía con mình lai rai vài cốc đế nghen con.(Má con cứ sợ tía bệnh nên cấm ngặt tía uống rượu)

*Ghi chú: Bài viết dùng phương ngữ miền Tây Nam Bộ, nên có nét bình dân trong văn phong.


15 tháng 1, 2015

Tản mạn: GIÊSU - NGƯỜI THẦY CỦA CON TIM



Khi được sinh ra trong cuộc đời, Thiên Chúa đã trao tặng cho tôi những món quà thật ý nghĩa, nhưng món qùa vô giá nhất đối với tôi là chính quả tim nơi ngực trái của mình. Thật khó để gọi đúng tên của món quà này, bởi lẽ chính tôi không hiểu được tại sao Thiên Chúa lại ban tặng cho tôi một cách nhưng không món quà quý giá như vậy? Khoa học gọi đó là “trái tim”, là một trong những bộ phận vô cùng quan trọng trong việc nuôi sống cơ thể; nhưng với tôi, món quà này lại mang một cái tên rất dễ hiểu là “Yêu Thương”, vì đây là nơi chất chứa những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, là nơi để cảm thông, chia sẻ với tha nhân. Nhưng tôi lại có nhiều thái độ khác nhau khi tiếp nhận món quà từ tay Thiên Chúa, đôi khi là niềm vui khi nhận được những điều hạnh phúc, may mắn; và cũng không ít lần tôi đã thầm trách Thiên Chúa vì những nỗi buồn và khó khăn mà tôi được ban tặng, vì có lúc cứ nghĩ điều đó quá sức với chính mình, và tôi khó lòng để vượt qua chúng. Nhưng trong một khoảng không gian lặng chỉ có Chúa và tôi, Chúa nói với tôi rằng đó chính là cách Chúa bày tỏ tình yêu cách chân tình, là cách Chúa giáo dục, đào luyện con tim của tôi nên giống như Người- một quả tim luôn cháy bừng yêu thương, tình yêu và khát vọng làm Vinh Danh Chúa Hơn.



Thời gian thắm thoát thế mà nhanh quá, đã hơn 2 năm được sống nơi mái nhà Ứng Sinh, và sống cùng anh em nơi những cộng đoàn bé nhỏ, biết bao niềm vui mà tôi đã nhận được qua chính những người anh em thân thương của mình. Niềm vui đó là mỗi ngày được cùng anh em ngồi vào góc cầu nguyện nhỏ bé của mình trong những giờ cầu nguyện, nhận định, cùng tham dự Thánh Lễ và các Bí Tích, cùng nghe sách thiêng liêng; Niềm vui đó là những lúc cùng anh em chia sẻ những bài học, chia sẻ việc thiêng liêng, hay những điều khúc mắc, khó khăn mà chính mình đang gặp phải; Niềm hạnh phúc đó là khi tôi có cơ hội để phục vụ anh em tôi qua những bữa cơm bé nhỏ, qua những việc làm đơn sơ thường nhật; và Niềm hạnh phúc đó là khi tôi nhìn thấy nụ cười trên đôi môi, trên khuôn mặt anh em rạng rỡ những điều tốt lành, thánh thiện. Nhìn lại, tôi mới thấy quý mến và trân trọng những món quà ấy biết bao.



Nhưng thiết nghĩ rằng, nếu Thiên Chúa chỉ luôn ban cho tôi những niềm vui và hạnh phúc thì có lẽ sẽ có lúc tôi không còn nhận ra Tình Yêu mà Người dành cho tôi nữa, bởi lẽ đã có những lúc tôi quên rằng vẫn có một Thiên Chúa vẫn luôn dõi mắt trên cuộc đời tôi, dẫn tôi bước đi trong cánh tay của Người. Và chính vì thế Người đã gửi đến cho tôi những khó khăn, đau khổ, để chính lúc đó tôi mới nhận ra tôi thật sự yếu đuối và tôi cần đến Thiên Chúa, cần Người dẫn tôi bước tiếp vì tôi đã có lúc ngã quỵ trước những khó khăn như thế. Đời sống cộng đoàn mang đến cho tôi những niềm vui khó tả, nhưng cũng có lúc những nỗi buồn và khó khăn vẫn hiện diện. Tôi vẫn nhớ có những lần chính mình phải rơi nước mắt vì những khó khăn quá sức với bản thân, đôi khi là những hiểu lầm trong mối tương giao với anh em, hay những khác biệt về tính cách, thói quen, lối sống… những lúc như thế, tôi chỉ mong muốn được đến bên Chúa nơi góc cầu nguyện, nơi nhà Tạm bé nhỏ, dẫu lúc đó tâm trạng rối bời, tôi chẳng nói được gì với Chúa, bước chân ra về mà tâm hồn trống rỗng, nhưng vẫn mong sao Người sẽ ban cho tôi một phép màu để tôi có thể thay đổi tất cả. Thời gian cứ trôi qua nhanh với những khó khăn tồn tại, và đến một lúc, tôi lắng nghe có tiếng Chúa với mình, đôi khi là trong sâu thẳm tâm hồn mình, cũng có lúc qua những anh em đang sống với tôi và những con người hiện diện xung quanh tôi nữa; Chính lúc đó tôi như nắm được một chiếc phao cứu sinh để bám víu lấy, và khi mọi chuyện đã qua đi, tôi mới nhận ra rằng: “Tôi Cần Chúa!”

Quả tim tôi vẫn có cảm giác đau, vẫn cảm thấy xót khi một ai làm tôi buồn hay thất vọng, chính lúc đó tôi lại nghĩ về quả tim của Giê-su, không biết bao nhiêu nỗi đau làm cho trái tim Chí Thánh của Người phải thổn thức, phải xót xa. Nỗi đau khi bị nhân loại chối từ Lời Chân Lý, và thậm chí là giết chết Vị Sứ Giả mang nguồn Chân Lý đến với họ; đau khi người môn đệ hằng ngày theo chân mình, cùng dong duổi nơi này chốn nọ lại nỡ bán mình cho quân dữ với cái giá 30 đồng bạc; đau khi người môn đệ đã từng thề thốt “con sẽ chẳng bao giờ bỏ thầy” lại chối bỏ Người trong lúc cùng cực nhất chỉ vì nỗi sợ hãi; đau khi cái chết cận kề mà các môn đệ thì ca bài ca “tẩu thoát”, để mặc Thầy trần trụi nơi Thập Tự Giá trên đồi Gol-go-tha; Nhưng Giê-su lại không để quả tim mình bị ngăn cản như con tim nhỏ bé của con người, chính Người đã vượt qua chính cái giới hạn tầm thường đó bằng chính Tình Yêu của mình: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Đức Giê-su vẫn vui lòng đón nhận những sự đau khổ nơi trần thế, chỉ vì Người biết điều đó là làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha, và mang lại lợi ích cho nhân loại. Vâng chỉ có Tình yêu mới có thể giải quyết mọi vấn đề vì “tình yêu trổi vượt trên tất cả”.

Từ bài học của Thầy Giê-su, tôi mới hiểu rằng những khó khăn trong đời sống cộng đoàn cũng là món quà cao quý từ Tình Yêu Thiên Chúa, và để giải quyết những vấn đề đó chỉ có liều thuốc “con tim” mới chữa trị được, nhưng quả tim của tôi vẫn có những giới hạn, có lẽ tôi chưa yêu mến Thiên Chúa hết lòng, yêu chưa dám hy sinh cho anh em, yêu chưa dám dấn thân để phục vụ tha nhân. Tôi vẫn cảm thấy cô đơn, chán nản trước những nỗi buồn, khó khăn, phải chăng con đường mà tôi lựa chọn là con đường một mình tôi đi, và không hề có sự hiện diện của Thiên Chúa trên hành trình đó. Vì thế, tôi cần phải can đảm, dám bước ra khỏi những sợ hãi của mình để dám lãnh nhận món quà mà Thiên Chúa ban tặng. Và một khi tôi đã đủ sức mạnh, quả tim của tôi có đủ sự can đảm, tôi có thể thực hiện điều mà Thiên Chúa trao phó cho tôi là đem chính ngọn lửa yêu thương nơi quả tim ấy đến với những con người mà tôi gặp gỡ.

Lạy Chúa, xin hãy đào luyện chính quả tim của con, để con can đảm vượt qua những nỗi buồn, những khó khăn và thử thách trong cuộc sống, nhờ vào đó quả tim con sẽ ngày càng trưởng thành hơn, nên giống quả tim nhân hậu của Chúa. Và mỗi ngày con cũng biết san sẻ quả tim ấy với anh em con, với những con người đang sống xung quanh con. Amen

                                                                                Little Stream


11 tháng 1, 2015

Suy tư: ĐỂ VINH DANH CHÚA HƠN


                Đọc qua những trang Tin Mừng của Thánh sử Gioan thứ bảy sau lễ Hiển Linh, đã cho tôi thật nhiều cảm nghiệm, nhiều bài học thật ý nghĩa. Hai hình ảnh hiện lên cùng lúc khi đọc Ga 3, 25-30 là hình ảnh hai phép rửa cùng diễn ra song song, của Chúa Giê-su và Thánh Gio-an Tẩy Giả; thực sự tôi không thể hiểu hết được giá trị của hai phép rửa này, nhưng điều để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất vẫn là cuộc trò chuyện của Thánh Gio-an tẩy Giả và đồ đệ của mình, tôi nhận ra nơi Gio-an chút gì đó sự khiêm nhường, sự bình an và hạnh phúc. Vâng! Ông đã tìm thấy nguồn vui của đời mình là làm cho vinh danh Chúa hơn.



                Khi nghe đồ đệ của mình nói: “Thưa Thầy, người trước đây đã ở với thầy bên sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông” (Ga 3,26) Cứ ngỡ rằng thái độ của Gioan sẽ có chút gì đó không vui, ông hiểu được nỗi buồn của đồ đệ mình khi thấy danh tiếng của ông bị thua Đức Giê-su, nhưng Gio-an đã hoàn toàn đi ngược lại với thái độ tự nhiên của con người, và qua đó, Gioan đã dạy cho các đồ đệ của mình một bài học thật quý báu. Đầu tiên ông đã khẳng định điều mà bản thân ông đang có là do Chúa thương ban cho ông, và ông cũng khẳng định lần nữa cách mạnh mẽ, xác quyết hơn “tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người” (Ga 3,28) ông hiểu được trách nhiệm, vai trò của ông là dọn đường, mời gọi dân chuẩn bị để chờ đón một Đấng Cứu Tinh thật sự, và Đấng ấy đã đến và ngự giữa con người, để gánh lấy tội lỗi con người đó chính là Đức Giê-su Na-da-rét, là người cũng đang làm phép rửa cho muôn dân trong Thánh Thần, và có lần Gio-an cũng đã tự nhận “tôi không đáng để cởi quai dép cho Người”. Thêm vào đó là một hình ảnh hết sức ý nghĩa mà Gio-an Tẩy Giả đã nói cho đồ đệ mình hiểu: “Ai cưới cô dâu, thì người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó để nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng” (Ga 3,29) Gio-an tự nhận mình chỉ là một người phù rể, chỉ đứng đàng xa mà nhìn về Thiên Chúa bày tỏ lòng yêu thương với dân riêng của Người, một người phù rể tuy không là nhân vật chính, nhưng là người rất quan trọng trong thời gian đầu của con Thiên Chúa sinh đến trần gian, và Gioan cho mọi người biết rằng: “Đó là niềm vui của thầy” (Ga3,29b) Vâng! Ông đã lấy chính điều ấy để làm niềm vui cho mình, và thậm chí là “niềm vui ấy bây giờ đã trở nên trọn vẹn” (Ga3, 29b), trọn vẹn bởi đã được phủ lắp bởi tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu bao la, hải hà rộng lớn, tình yêu đến để chết cho nhân trần để cứu con người khỏi vũng lầy của sự tội lỗi. Với Gio-an, giờ đây khi Ngôi Hai thiên Chúa đã được người ta đón nhận, và người ta chạy đến để lãnh nhận phép rửa nơi Người, thì Gioan đã mãn nguyện vì đã phần nào hoàn tất trách vụ mà Thiên Chúa trao cho ông, và giờ đây ông sẵn sàng để lui vào bóng tối, để trong tiềm thức con người dần mất đi một Gio-an với những lời rao giảng, kêu gọi sám hối và phép rửa, nhưng giờ đây trong tâm trí con người ta sẽ chỉ còn hình ảnh của một Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Qua con người của Gioan, đã phần nào đánh bật lên tư tưởng của ông: “ Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30)

                Nhìn lại bản thân tôi, Phải chăng những lúc thấy người khác hơn tôi điều gì thì tôi lại ghen tị, ganh ghét và sinh lòng đố kị? Tại sao Gioan Tẩy Giả lại có thể vui vẻ, hạnh phúc, bình an khi nghe biết Danh tiếng của Chúa Giê-su hơn mình? Bởi ông đã hiểu, đã thấy được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người, tình yêu bao trùm của sự ganh ghét và đố kị.  Và cũng có đôi lúc tôi tự đánh bóng bản thân mình bằng những việc làm, những hành động tốt, để nhận lấy những lời khen ngợi từ người khác, những lúc như thế tại sao tôi lại không làm vinh danh Chúa hơn, thay vì vinh danh chính bản thân mình. Và bài học của Gioan hôm nay sẽ là lý thuyết suông nếu tôi không dám đem ra để thực hành. Ước gì mỗi ngày trong đời sống của tôi, tôi sẽ sống theo gương Gioan Tẩy Giả “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”

                Lạy chúa, xin cho con biết sống khiêm nhường, tự hạ và luôn nhận ra mục đích sống của mình, là làm vinh danh Chúa hơn mỗi ngày trong cuộc đời con. Amen

AD MAJOREM DEI GLORIAM

Little Stream

06 tháng 1, 2015

Tản mạn: CHÚT CẢM NGHĨ VỀ NGÀY CỔ VÕ ƠN GỌI


Có lẽ chưa bao giờ tôi có cảm giác chờ mong và nôn nao như thế, chỉ còn hơn 1 tuần nữa là ngày Cổ Võ Ơn Gọi sẽ diễn ra, nhưng với tôi 1 tuần ấy sao dài quá. Trong những giây phút chờ đợi ấy, tôi chợt suy nghĩ về ơn gọi của bản thân mình, ơn mà Chúa đã dành cho tôi với cuộc sống hiện tại nơi Nhà Ứng Sinh (NUS).

Có lẽ một thằng nhóc quê mùa như tôi chưa từng và cũng không dám nghĩ rằng mình sẽ có cơ hội đến với NUS, có cơ hội tìm hiểu và đào sâu hơn về ơn gọi của mình, nơi Dòng mang tên Chúa Giê-su, với tôi đó là cả một hồng ân thật bao la mà Chúa đã ban tặng. Nhìn lại suốt hơn 2 năm qua, kể từ cái ngày tôi rời xa gia đình để bước vào cánh cổng đại học, thì cũng chính lúc ấy tôi được nhận vào NUS để bắt đầu cho một hành trình mới, hành trình tìm hiểu ơn gọi. Thật sự hơn 2 năm trôi qua, tôi nhận ra Giê-su đã và đang hiện diện cùng tôi mọi nơi mọi lúc, bởi lẽ có những lúc bình an, hạnh phúc, lúc đó tôi thật sự dễ dàng để nhận ra ơn lành mà Chúa tuôn ban cho tôi; nhưng những lúc gặp phải những khó khăn, thử thách trên mọi phượng diện, thì nhận ra sự hiện diện của Người thật khó biết bao. Nhưng với khoảng thời gian như thế, giờ nhìn lại tôi nhận ra mình đã vượt qua bao nhiêu là khó khăn, bao nhiêu là sóng gió và bao nhiêu là niềm vui và hạnh phúc. Vâng! Giê-su đã và đang song hành với tôi.



Thế là ngày cổ võ ơn gọi cũng đến, tôi mong chờ ngày này vì đây là cơ hội được gặp gỡ với biết bao anh chị em cùng có chí hướng như tôi, chỉ khác nhau về linh đạo mà mỗi người chọn, nhưng cùng một đích đến duy nhất là nơi Thầy Giê-su. Tôi thật sự ấn tượng với Thánh Lễ buổi chiều do Cha Giám Đốc Nhà Ứng Sinh An-tôn Nguyễn Cao Thắng, S.J chủ tế, và các Cha thuộc tỉnh Dòng Tên Việt Nam đồng tế, tiếng đàn, tiếng hát cùng với Bộ Lễ Ca Lên Đi 2 của anh em Ứng Sinh Vùng Thủ Đức đã cất công tập luyện (có lẽ phải hơn 1 tháng mới có thể hát tốt đến như vậy), thêm vào đó liếng tiếng trống Cajon cùng hòa vào các bài hát làm cho không khí Thánh Lễ thêm sốt sắng, tươi trẻ, và sinh động. Cha An-tôn Nguyễn Cao Siêu, S.J đã phụ trách Công Bố Lời Chúa và giảng lễ, bài giảng của Cha đã giúp anh em chúng tôi nhận ra ơn gọi dâng hiến mà chúng tôi theo đuổi cũng là một hành trình, như khi xưa ba nhà chiêm tinh đã đi theo hành trình của ánh sao lạ mà đến với Hài Nhi, các vị đã gặp bao khó khăn, để cuối cùng là đến nơi hang lừa tồi tàn, rách nát và bái lạy một đứa bé mới sinh nằm trong máng cỏ, nhưng trong lòng họ ánh lên niềm vui và hạnh phúc vì hành trình của họ đã hoàn tất, đối với tôi cũng thế, trên hành trình theo Giê-su cũng có những khó khăn, gai góc nhưng hạnh phúc biết bao khi gặp được Giê-su là điểm hẹn của đời tôi. Buổi giao lưu cổ võ ơn gọi mang tên “Điểm Hẹn Giê-su” được Cha Giám Đốc NUS tuyên bố khai mạc, qua những lời thuyết trình của các Dòng về ơn gọi riêng của từng Dòng, kèm theo đó là những cử điệu, điệu múa thật đẹp, thật ý nghĩa, sôi nổi của Quý Sơ, của các nhóm Sinh Viên và cũng không kém phần sâu lắng với những vở kịch do anh em ứng sinh đã cất công dàn dựng, suốt hơn 3 giờ liền, mà số lượng khách mời vẫn còn đông nghẹt của Hội Trường, đặc biệt nơi các bạn trẻ đến với buổi giao lưu nay, tôi không biết  ban đầu vì sao các bạn lại đến với buổi giao lưu này, có thể là được mời đến, có cơ hội nhìn thấy trên mạng rồi đăng kí tìm đến… Nhưng chắc chắn sau buổi Cổ Võ ơn gọi các bạn đã có những suy nghĩ riêng cho mình về ơn gọi mà Chúa muốn các bạn đi. Xúc động nhất vẫn là những giây phút hồi tâm cuối ngày, từng ánh nến được thắp lên, hòa theo tiếng nhạc nhè nhẹ và từng điệu múa nhẹ nhàng làm cho ánh nến thêm lung linh, huyền nhiệm. Những giây phút ấy chợt làm tôi nhớ đến lời của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong “Tông thư gửi tất cả các người Thánh hiến dịp cử hành Năm của Đời sống Thánh hiến” có đoạn Ngài viết rằng:Cha ngỏ lời nhất là với các Con, những người trẻ. Các Con là hiện tại bởi vì các Con đã sống tích cực trong lòng của các Hội Dòng của các Con, khi cống hiến một sự đóng góp quyết định với sự tươi mát và quảng đại của sự chọn lựa của các Con. Đồng thời, các Con cũng là tương lai bởi vì sắp tới đây, các Con sẽ được mời gọi cầm chắc trong tay việc hướng dẫn linh hoạt, việc huấn luyện, việc phục vụ, công tác truyền giáo. Năm này sẽ nhìn thấy các Con là các người đi đầu trong việc đối thoại với thế hệ ở trước mặt các con. Trong tình hiệp thông huynh đệ, các Con sẽ có thể làm cho mình nên phong phú về kinh nghiệm và sự khôn ngoan, và đồng thời, các Con sẽ có thể tái đề nghị cho thế hệ này, lý tưởng mà họ biết ngay từ đầu, đóng góp vào việc làm tung mở ra và sự tươi mát với sự hăng say của các con, như thế để cùng nhau đưa ra các hình thức mới để sống Phúc Âm và các câu trả lời luôn thích hợp cho các đề nghị của chứng từ và việc loan báo. Cha hài lòng vì biết rằng các Con sẽ có các dịp để gặp nhau giữa các Con, các Tu sĩ trẻ của các Hội Dòng khác nhau. Chớ gì cuộc gặp gỡ này trở nên hành trình thường xuyên để hiệp thông, để nâng đỡ lẫn nhau, để hiệp nhất.”  Buổi giao lưu kết thúc trong bầu khí ấm áp giữa khí trời lạnh lẽo, mọi người chào nhau với những cái bắt tay thật ấm áp, chụp với nhau tấm hình lưu niệm và hẹn lần tới nữa sẽ được gặp lại và cũng hứa hẹn cho những tiết mục đặc sắc hơn nữa.
 
Lạy chúa, xin cảm tạ Chúa vì một ngày Cổ Võ Ơn Gọi thật ý nghĩa, một ngày trời rất trong và đẹp; một ngày hồng phúc để anh chị em chúng con quay quần bên nhau, để chia sẻ và cùng nâng đỡ nhau trên bước đường ơn gọi mà chúng con đang đi; một ngày với tiếng thôi thúc thật mạnh mẽ của Giê-su trong tim các bạn trẻ khao khát dấn thân cho Chúa nhưng chưa dám bước chân ra đi. Nguyện xin Giê-su mãi là điểm hẹn của mỗi người chúng con. Amen.

Little Stream


(Nguồn trích Tông Thư của ĐTC: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20141201/28604)