24 tháng 4, 2021

Tản mạn: ĐI TU KHÓ KHÔNG ANH?

 Em thân mến,


Có lần em hỏi: “Đi tu khó không anh?”, anh đã không đưa ra câu trả lời. Phải chăng anh đang muốn phủ định nét đẹp rất riêng của đời tu? Hay anh đang e ngại rằng sau khi trả lời câu hỏi này, em sẽ không chọn lựa ơn gọi dâng hiến nữa? Thông cảm cho anh, em nhé! Anh không trả lời được cách trực tiếp và đầy đủ vì…


Em đang thời xuân xanh quá đẹp, cái tuổi mà ông bà gọi là “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu”. Sự năng động và tự tin của bản thân đủ tạo cho em một thế đứng vững chải, tạo nét rất riêng mà chỉ em mới có trong bất cứ bậc sống nào em chọn. Như lời đáp trả cho tiếng gọi trong tâm hồn, em khao khát dấn thân vào đời tu. Mong ước của em là giới thiệu Chúa cho mọi người theo lối sống của một linh đạo nào đó. Chúc mừng em trước chọn lựa đó, em nhé!




Trở lại lý tưởng chung của chúng ta, anh em chúng ta vẫn xác tín rằng ơn gọi tu trì là một lý tưởng luôn cao đẹp trong mọi thời, không thua kém gì ơn gọi gia đình và độc thân giữa đời, bởi lẽ lý tưởng đời tu hướng chúng ta đến với Thiên Chúa theo một cách thức rất riêng của nó. Nhưng em à! Chuyện khó dễ đâu là vấn đề duy nhất của ơn gọi này. Trong cuộc sống, bất cứ đời sống nào mà không có chuyện khó hay chuyện dễ phải không em? Em cứ nhìn vào chính gia đình ruột thịt của chính em mà xem, sự vất vả của ba mẹ và anh chị trong gia đình đã minh chứng phần nào nỗi vất vả rồi đó! Hơn nữa họ còn tranh đấu nội tâm để chọn lựa giữa cái thiện và cái ác, điều tốt và điều xấu. Anh cũng xin thưa với em rằng đời tu cũng phấn đấu gian nan không kém em à!


Phải chăng em hay nghe ba mẹ và họ hàng khuyên rằng: “Đi tu cho khỏi gặp những khó khăn trong cuộc sống” hay “tu đi cho khoẻ, ở đời cực lắm con ơi!”… Mỗi lần nghe ai nói điều đó, em đừng giải thích gì mà hãy mỉm cười để cảm thông với suy nghĩ họ. Một nụ cười để xoá đi những tư tưởng nhằm nâng đời tu lên một tầm cao “thần thánh”. Có phải linh mục và tu sĩ là những vị “thần thánh” để không biết thương, ghét, giận, hờn? Có phải họ “siêu phàm” đến mức có thể xây dựng một thiên đàng ngay tức thời tại nơi họ sống? Có phải họ không phải dự tính, đắn đo cho sứ mạng và cuộc sống vì… Chúa đã lo cho họ hết rồi? Không đâu em à! Chúa không biệt đãi kẻ đi tu hơn là người sống đời sống gia đình hay độc thân giữa đời theo kiểu “con ruột” và “con ghẻ” thế đâu. Dù bất kỳ đời sống nào thì con người cũng phải được trui rèn qua những thuận lợi và khó khăn rất riêng, là những điều mà chỉ những ai trong cuộc mới thấu hiểu và thông cảm cho nhau.


Thuận lợi là các linh mục và tu sĩ có cơ hội sống toàn tâm toàn ý cho lý tưởng mà không bị lo lắng cơm, áo, gạo, tiền chi phối. Thuận lợi là họ được dưỡng nuôi trong một dòng chảy linh đạo xuyên suốt nhằm giúp bản thân triển nở mỗi ngày. Thuận lợi là họ được xây đắp nhiều khía cạnh của đời sống nhờ vào những phương thức giáo dục rất riêng của mỗi linh đạo và đặc sủng. Thuận lợi là họ sẽ trở thành những tông đồ hữu ích bước ra cánh đồng sứ vụ trong tương lai với hậu phương vững chắc là Thiên Chúa, Dòng và anh chị em cùng chí hướng.


Nhưng khó khăn mà họ phải đối mặt là những xung đột nho nhỏ trong đời sống chung và những mâu thuẫn khi bàn định về sứ mạng. Khó khăn khi sự khiêm nhường của mỗi cá nhân chưa đủ khi đối diện với những khác biệt của anh chị em mình. Khó khăn khi họ phải âm thầm mang những nỗi cô đơn khó tả trong đời tu. Khó khăn khi những đòi hỏi dung hoà quá lớn mà bản thân họ không đáp ứng được. Khó khăn khi phải đối diện với những bước lần mò trong ơn gọi khi tiếng Chúa có lúc rõ lúc mờ. Khó khăn khi phải gánh vác những trọng trách quá lớn và quá sức trong khi bản thân họ gần ngã quỵ. Và nhiều khó khăn khác nữa…


Chắc hẳn không ít lần em đã nghe Đức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục và tu sĩ mời gọi mọi người rằng: “Xin hãy cầu nguyện cho tôi/ chúng tôi”, hoặc “xin hãy nhớ đến tôi/ chúng tôi trong lời cầu nguyện của mọi người!”. Em đừng cho rằng đó là một lối nói hạ mình trước người khác nhằm tỏ ra sự khiêm nhường trổi vượt. Không! Đức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục và tu sĩ nam nữ đang nài xin cách thành tâm đấy! Em nhớ cầu nguyện cho các ngài cách liên lỉ, để họ trung thành mãi trong ơn gọi dâng hiến đến phút cuối của cuộc đời dương thế này. Còn vì sao các ngài phải nài xin điều đó hẳn em đã hiểu phần nào rồi em nhỉ!


Anh viết đôi dòng cho em, mong em khuây khoả phần nào khúc mắc khi được nghe hé mở một chút tâm sự sâu kín trong đời tu. Em đừng hãi sợ trước những khó khăn mà anh kể trên nhé! Vì bất kỳ ai sống trong bậc sống nào mà họ khao khát và yêu quý, thì họ càng hạnh phúc với bậc sống ấy dù khó khăn trắc trở cách mấy đi nữa. Một cuộc sống không có những bước đánh liều và trả giá quả là một cuộc sống buồn tẻ. Anh tin rằng sức trẻ của em không cho phép em sống trong buồn tẻ như thế đâu em nhỉ! Thiên Chúa vẫn là điểm tựa vĩnh cửu của chúng ta, những con người mong giòn khao khát sống đời dâng hiến. Vững mạnh lên em nhé!  


                                                                                Anh trai của em,

                                                                                        Silicat.

21 tháng 4, 2021

Tản mạn: TÂM SỰ CỦA CHIẾC TÚI NILON

 Bạn thân mến,


Tôi chính thức xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1959, do một kỹ sư người Thụy Điển tên là Sten Gustaf Thulin. Bản thân tôi mang ơn ông vì nhờ ông mà tôi có mặt trong thế giới này, nhưng tôi cũng muốn xin lỗi thế giới, xin lỗi con người và xin lỗi chính vị kỹ sư, vì những tai tiếng không mấy tốt đẹp về chính tôi – những chiếc túi nilon – trong thế giới con người ngày nay.


Chắc chắn bạn sẽ phải giật mình khi nghe những tâm sự của chiếc túi nilon nhỏ bé này. Được chào đời với mục đích hoàn toàn tốt đẹp, kỹ sư Sten Gustaf Thulin đã tạo ra tôi từ quan sát rất thực tế rằng những chiếc túi giấy thời ấy đã ngốn rất nhiều cây rừng mỗi năm. Đúng như cái nhìn sáng tạo của vị kỹ sư, từ dạo tôi được đưa vào sử dụng, thì số lượng những cây xanh bị đốn hạ để sản xuất túi giấy được giảm xuống rất nhiều. Bước đầu của sáng tạo đã thành công và được ghi nhận. Có thể bạn đã không nghĩ tới việc tôi được vinh danh lần đầu tiên khi Celloplast công nhận tôi là sở hữu trí tuệ vào năm 1965.




Vâng! Vì là một sản phẩm đầy trí tuệ, nên tôi cũng cần được sử dụng bằng những cách thức đầy trí tuệ. Việc sử dụng đúng cách những chiếc túi nilon thật cần thiết biết bao trong bất cứ thời nào. Tôi hạnh phúc biết bao khi ai đó sử dụng những chiếc túi nilon đúng mục đích và đúng cách. Đi bất cứ nơi đâu người ta cũng mang theo những chiếc túi nilon nhỏ xíu và xếp chúng gọn gàng, ngăn nắp trong chiếc cặp bé xinh của họ. Khi mua sản phẩm từ siêu thị, thay vì sử dụng những chiếc túi giấy, họ bung tôi ra hết cỡ để chứa mọi vật dụng vào đó. Bản chất của tôi từ khi được tạo ra là dẻo dai và bền bỉ, vì thế con người có thể tái sử dụng tôi nhiều lần. Sau mỗi lần mua hàng hóa và đựng trong chiếc túi nilon, họ giặt lại sạch sẽ, phơi khô và xếp gọn gàng trong chiếc cặp. Mục đích nhằm sẵn sàng cho việc tái sử dụng lần tiếp theo. Tôi mang ơn kỹ sư Sten Gustaf Thulin đã đem tôi đến trong cuộc sống này, đồng thời cho tôi được nhìn thấy những tiện ích mà mình có thể mang đến cho con người.


Tôi dần dà xuất hiện trong mọi ngóc ngách của đời sống con người. Thế giới loài người càng phát triển, thì tôi càng được trưng dụng nhiều hơn. Từ những khu chợ nghèo nàn, đến những khu mua sắm cao cấp, thậm chí ở những nơi công cộng như bệnh viện, công sở, trường học đều sử dụng những chiếc túi nilon như dụng cụ dung chứa mọi thứ. Không những được sử dụng rộng rãi, tôi còn được mặc cho nhiều hoa văn và kết hợp với nhiều chất liệu dẻo dai và bền bỉ khác nữa. Những nhãn hiệu độc quyền của các công ty lần lượt được in lên chiếc túi nilon đựng hàng, kèm theo những hoa văn bắt mắt khiến khách hàng nhìn qua một lần là nhớ. Từ những kích cỡ nguyên thủy vừa vặn và ít đa dạng, dần dà tôi được con người tạo ra với nhiều kích cỡ và hình dạng to nhỏ khác nhau. Có những chiếc túi cực to có thể đậy kín cả một cỗ máy to đùng, hay một chiếc túi nhỏ xíu để túi quanh cái kẹo mút nhằm giữ an toàn thực phẩm.


Giữ an toàn thực phẩm là chức năng thứ hai mà chiếc túi nilon như tôi có thể làm được. Nhiều lọai thực phẩm sống và chín khác nhau được dung chứa trong nhiều loại túi nilon với chất lượng khác nhau. Sứ mạng của tôi là giữ cho những chất thải từ thực phẩm sống như cá, thịt, rau, củ, quả và nhiều loại khác không bị vung vãi ra ngoài đường hoặc trên sàn nhà mà làm vấy bẩn những thứ xung quanh. Đồng thời, tôi cũng có nhiệm vụ giữ cho những thực phẩm chín đảm bảo tình trạng sạch sẽ, để khi con người tiêu thụ thực phẩm không bị ngộ độc. Ngẫm lại tôi thấy mình có bổn phận góp vào ích chung của xã hội này là phục vụ, bảo vệ sức khỏe và mang lại tiện ích cho con người bao nhiêu có thể.


Bên cạnh thái độ tự hào và biết ơn, tôi còn thấy mình có lỗi với trái đất, với nhân loại và với vị kỹ sư đã sáng chế ra mình, vì tôi đã không làm tròn trách nhiệm được giao phó. Hàng ngày có rất nhiều thông tin được đăng tải về chuyện những rác thải nilon được vứt ra môi trường bên ngoài gây ô nhiễm môi trường cách nặng nề. Các nhà khoa học đã bắt tay vào việc. Họ chứng minh rằng một chiếc túi nilon dưới lòng đất phải trải qua thời gian năm trăm đến một nghìn năm mới có thể phân hủy được. Chính vì thế, khi tôi bị chôn vùi dưới lòng đất, tôi sẽ tồn tại rất lâu, sẽ góp phần làm ô nhiễm đất và kéo theo nhiều hệ lụy. Tuy nhiên, điều đó cũng nói lên rằng con người chưa sử dụng hết tác năng của tôi. Chiếc túi nilon như tôi có thể tồn tại rất lâu là vì tôi có thể được tái sử dụng nhiều lần và phục vụ con người cách đắc lực.


Tôi đã cố gắng thét gào với con người rằng: “Hãy rửa sạch, phơi khô và tái sử dụng!”, “Đừng vứt chúng tôi đi, chúng tôi còn sử dụng được!”, “Hãy phân loại chúng tôi ra, chúng tôi dù đã bị rách nhưng có thể được tái chế lại ở các nhà máy!”… Tôi đã kêu gào đến khản cổ nhưng không có tác dụng. Kết quả dẫn đến là những chiếc túi nilon chỉ được sử dụng có một hoặc hai lần, hay chỉ mới đựng vài món đồ đã bị vứt vào thùng rác. Sự vô dụng của chiếc túi nilon không nằm ở tính năng thực sự của nó nữa, mà nằm ở chính thái độ và quan điểm sử dụng của con người. Nhìn những bãi rác đầy những chiếc túi nilon được vứt bỏ, tôi cảm thấy nuối tiếc vô vàn. Ước gì có một phép màu nho nhỏ có thể biến những chiếc túi nilon ngoài những bãi rác trở nên sạch sẽ và được tái sử dụng lại nhiều lần nữa.


Tôi muốn xin lỗi thiên nhiên vì chính tôi đã góp phần hủy hoại thiên nhiên bằng chính những chất thải nilon. Tôi cũng xin lỗi những dòng sông vốn trong lành nay đã trở nên ô nhiễm vì những chiếc túi nilon bị vứt xuống khiến tắt nghẽn dòng chảy. Tôi muốn xin lỗi những bạn thủy sinh và động vật thân thương, vì sự xuất hiện tràn lan của chúng tôi đã choáng chỗ ở của các bạn, cuối cùng góp phần đẩy các bạn vào đường chết. Tôi cũng không quên xin lỗi ngôi trái đất vì tôi đã góp phần gây ra ô nhiễm nặng nề. Tôi muốn xin lỗi con người vì sự xuất hiện của chúng tôi đã gây nhiều rắc rối cho cuộc sống và sức khỏe của mọi người. Cuối cùng, tôi muốn xin lỗi chính kỹ sư Sten Gustaf Thulin vì đã không làm tròn trách nhiệm mà ông mong muốn khi sáng tạo nên tôi.


Một lần nữa, tôi xin bạn hãy cứu tôi bằng cách đưa tôi về đúng với chức năng ban đầu khi tôi được tạo ra. Xin bạn hãy nói với những người quanh bạn thay tôi rằng: “Hãy rửa sạch, phơi khô và tái sử dụng!”, “Đừng vứt chúng tôi đi, chúng tôi còn sử dụng được!”, “Hãy phân loại chúng tôi ra, chúng tôi dù đã bị rách nhưng có thể được tái chế lại ở các nhà máy!”… Tôi tin tiếng nói của bạn sẽ có giá trị và sức mạnh hơn tiếng nói của tôi gấp rất nhiều lần. Ước mong duy nhất của tôi là được phục vụ con người, vì thế xin các bạn hãy nối tiếp ước mơ nhỏ nhoi của tôi.


Tiếng nói của tôi đang nhỏ dần trước sự lớn mạnh ồ ạt của công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Nước mắt tôi đã chảy khi thấy cuộc sống con người đang bị hủy hoại vì sự hiện diện của tôi. Tâm hồn tôi quặn thắt khi nghe báo đài và nghiên cứu dự báo về tình hình tồi tệ của rác thải nilon. Tôi xin mọi người… Tôi xin mọi người… Hãy giúp tôi…


                                                                                        Little Stream


 

18 tháng 4, 2021

Tản mạn: TÂM SỰ CỦA RAU XANH

Bạn thân mến,


Chúng tôi là những luống rau xanh mơn mởn trong vườn được người nông dân khổ công vun trồng và chăm bón. Tôi may mắn vì được chứng kiến từng bước lớn lên của chính mình và bạn bè quanh tôi, sự tiến triển gắn liền với đôi bàn tay con người. Từ những quan sát thực tế ấy, tôi xin kể cho bạn nghe những ưu tư của rau xanh chúng tôi trong thời buổi hiện đại này.


Nảy mầm từ những hạt giống bé xíu, tôi mang ơn cha mẹ mình. Họ đã cưu mang tôi trên chính tấm thân của họ. Khi đến lúc phải ra đi, họ để lại những hạt giống để người nông dân gieo vào năm sau. Cứ thế hết đời này tới đời khác, những thế hệ rau xanh cứ ra đời để phục vụ cho con người. Tôi thầm tạ ơn Đấng tác thành đã yêu thương và sắp đặt cho chúng tôi một sự vận hành bên trong mà chỉ chúng tôi – những giống rau xanh – mới biết được. Sứ mạng mà tôi đẩm nhận trong xã hội loài người là cung cấp dinh dưỡng cho con người qua những bữa ăn. Rau xanh vẫn là thứ cần thiết bên cạnh thịt, cá hay các loại thực phẩm khác. Cứ thế, hết thế hệ này đến thế hệ khác của những giống rau xanh lần lựa ra đời và thi hành sứ mạng cao cả ấy.




Nhưng ưu tư mà tôi muốn nói với bạn không phải là sứ mạng, mà là những mối rủi ro ảnh hưởng tới sứ mạng của rau xanh cũng như sức khỏe của con người thời hiện đại. Thực tế cho thấy, nhu cầu sử dụng rau xanh số lượng lớn không thể được đáp ứng theo kiểu trồng rau truyền thống, bởi lẽ cách ấy cho năng suất quá thấp. Việc gầy nên nhiều luống rau bằng phương pháp hiện đại, chăm bón và bảo vệ bằng những sản phẩm hóa học là điều không thể lựa chọn. Tuy nhiên, kể từ khi áp dụng những tiến bộ như thế vào khâu bảo quản và trồng trọt, chúng tôi không còn là chính mình nữa. Nhiều hạt giống không còn sạch và đảm bảo chất lượng như mong muốn. Vì muốn giữ hạt giống thời hạn lâu hơn bình thường và cho kết quả chất lượng trọn vẹn, có những giống đã được ngâm vào nhiều chất hóa học khác nhau, để cuối cùng sinh ra những loại rau đột biến mà ngay chính họ hàng rau cũng không nhận ra nữa. Bên cạnh đó, trong quá trình trồng trọt, nhiều đợt thuốc được phun vào những luống rau để chống sâu bọ, kích thích tăng trưởng và nhiều chức năng khác.


Vấn đề gì sẽ xảy ra nếu những hạt giống được bảo quản trong nhiều chất hóa học khác nhau? Rồi nhiều thứ thuốc khác nhau cứ lần lựa được phun vào lá, gốc và đất trồng sẽ dẫn đến điều gì? Tôi không thể biết được những hạt giống – là anh chị em rau xanh của tôi – sẽ mắc phải những chứng bệnh gì, vì tôi không phải là những nhà nghiên cứu, nhưng dường như bên trong họ có nhiều điều thay đổi. Có những buổi sáng thức dậy tôi nghe họ than vãn về cảm giác đắng ngắt và uể oải, muốn vươn những cánh rau xanh ra đón ánh mặt trời nhưng không còn sức để bung nữa. Có những người bạn của tôi khao khát chút thổ dưỡng nhưng cũng không có được vì họ được trồng theo phương pháp thủy canh, dưới gốc họ chỉ toàn nước và dưỡng chất chứ không có một chút đất. Nếu tổ tiên tôi hay gần nhất là cha mẹ tôi mất gần ba tháng để lớn đủ và phát triển trọn vẹn, thì tôi và các bạn gần một tháng đã phát triển lớn mạnh hơn tổ tiên mình. Thực sự chúng tôi không muốn biến mình thành những “thánh Gióng” để lớn nhanh như thổi, vì đó không phải là nét tự nhiên của rau xanh chúng tôi.


Những cây rau xanh trông rất to nhưng thực tế còn rất non, được bày bán đầy ở các gian hàng là một nỗi đau của chúng tôi. Không đủ lớn lên bằng nỗ lực của bản thân mình mà nhờ những kích thích của dưỡng chất cấp tốc và chất hóa học. Chưa kịp đón đủ đón ánh nắng mặt trời và những cơn mưa tự nhiên, chúng tôi đã được đưa ra chợ bán. Chưa kịp cảm nhận cách đầy đủ về sự phát triển của bộ rễ, sự vươn mình của những chiếc lá đã bị ngắt đi mà trồng những đợt rau mới. Chưa kịp hưởng vị đất ra sao đã được đưa vào một hệ thống toàn bằng nước ngay từ bé. Có một khao khát mà tôi tin khi nói ra bạn sẽ cười, đó là tôi khao khát gặp một chú sâu, một chú cào cào đậu trên lá của mình và tôi sẵn sàng thậm chí là vui lòng để các chú ấy gặm nhấm. Tôi không ích kỷ cho bản thân mình, nhưng tôi muốn sống đúng với bản chất tự nhiên mà Đấng tác thành đã tạo nên chúng tôi từ rất lâu đời.


Khi chúng tôi được trao đổi mua bán, được đưa vào những bữa ăn của các công ty, trường học và gia đình. Nhưng bạn ơi! Có một điều mà anh chị em rau xanh chúng tôi thấy mình thiếu, đó là sự tự tin có thể phục vụ cách tốt nhất cho đời sống con người. Tại sao vậy? Vì tôi đã không được tự lớn lên bằng sức lực của bản thân, nên hoàn toàn không biết về chính mình. Phải chi tôi hưởng đủ ánh nắng mặt trời! Phải chi tôi được tắm những cơn mưa thỏa thích! Phải chi tôi được nếm vị đất và cảm nhận được sự di chuyển của bản thân! Phải chi… và phải chi… thì tôi biết chắc mình đủ dinh dưỡng để cung cấp cho con người. Đàng này, mọi chuyện như một giấc mơ, nhắm mắt và mở mắt đã được đưa đi tiêu thụ. Ôi cuộc đời rau xanh thời hiện đại!


Vì thiếu tự tin, nên mỗi khi con người đưa nhiều loại rau xanh vào nồi canh, nhúng vào lẩu hoặc ăn sống, chúng tôi sợ… Xin lỗi bạn vì chúng tôi không đủ sức kiểm soát chức năng và trách nhiệm của chính mình, để nhiều ca bệnh, ngộ độc thực phẩm hay thậm chí là ung thư vì những thứ hóa học mà chúng tôi đang mang trong người. Xin các bạn hãy tha thứ cho rau xanh chúng tôi tất cả. Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để gióng lên hồi chuông, nhưng hồi chuông ấy không đủ vang để làm thức tỉnh hết thảy mọi người. Chúng tôi – những giống rau xanh – cần sự giúp đỡ của bạn. Xin trả chúng tôi về với tự nhiên. Xin cho chúng tôi được sống như chúng tôi là và cho chúng tôi được phục vụ mọi người bằng hết sức mình có được.  


                                                                                    Little Stream

16 tháng 4, 2021

Truyện ngắn: SẾU CON

 1.

-“Mẹ ơi! Sao chúng ta không bay về lại cánh rừng cũ?”, tôi rúc mỏ vào cánh mẹ và hỏi.


-“Chỗ đó làm gì còn rừng mà về hả con?”, mẹ trả lời tôi.


-“Sao mẹ biết chỗ đó không còn rừng?”, tôi muốn đòi một bằng chứng cụ thể.


Mẹ kêu tôi bay theo sau, đậu lên một nhánh cây phía trên cao hướng về cánh rừng cách đó không xa lắm, mẹ hướng chiếc mỏ dài nhọn về phía cánh rừng chỉ cho tôi. Trước mắt tôi chỉ là một vài nhánh cây trơ trọi phất phơ trước gió, đàng dưới là những khoảng trống lỗ chỗ những mảng nắng vàng chói. Tôi định vỗ cánh bay tới xem cho rõ hơn nhưng mẹ lấy mỏ gắp chân tôi lại:


-“Đừng con! Nguy hiểm! Đừng bỏ mẹ lại một mình.”


Tôi nghe lời mẹ.




2.

Nơi cả nhà sếu tôi đang tá túc là một khu rừng nhỏ gần khu rừng cũ không xa lắm. Sau buổi sáng bay đi tìm thức ăn với gia đình, chiều trở về bác sếu lớn báo tin bảo chúng tôi đừng trở về khu rừng ấy nữa. Người ta đã vào săn bắt và cưa gỗ trong rừng. Thế là quần thể sếu chúng tôi gần cả trăm con phải tá túc ở cánh rừng lạ lẫm và chật hẹp. Thi thoảng lắng tai vẫn nghe tiếng máy cưa kêu rõ từng đợt một, mẹ lấy hai cánh che mắt lại hình như muốn che dòng nước mắt đang trào ra.


Mẹ khóc bởi quần thể sếu nhà tôi đang dần ít và hiếm. Nhiều bác và anh chị đã bị săn bắt và chết dọc đường. Trở về kiểm tra số lượng mới biết thiếu và khi trở lại tìm thì mọi sự đã trễ. Khu rừng mà chúng tôi tá túc trước đây là lựa chọn cuối cùng sau nhiều cuộc di cư. Đó là một khu rừng hoang được bao bọc bởi những con kênh. Các bác sếu lớn chọn khu rừng này bởi lẽ khu rừng… xa nơi con người sống. Các bác đã có kinh nghiệm về sự mất mác, nên nỗi sợ luôn ám ảnh các bác. Lũ trẻ chúng tôi lớn lên ham thích bay nhảy, luôn thấy chán ngán những khu rừng nhỏ xíu và chán òm này. Nhiều khi đang đi kiếm ăn với cả đàn, chúng tôi rủ nhau tách bầy và bay đi chơi xa cả ngày. Vượt ra khỏi khu rừng đến với những đồng ruộng bát ngát, gặp bao nhiêu bạn chim ở các vùng khác. Thấy những con suối đẹp và nước trong lành giữa những khe đá, chúng tôi lấy làm thích thú thay vì cứ nhìn những con kênh nước đen ngòm bốc mùi khó chịu. Có chị sếu trẻ cười nói hạnh phúc:


-“Cuộc đời đẹp thế! Sao lại cứ nhốt mình trong cái khu rừng ọp ep thế kia!”


Nhóm trẻ chúng tôi về rừng khi trời đã chạng vạng. Các bác sếu và cô chú sếu lớn trong rừng, trong đó có cha mẹ tôi, đứng xếp cánh nhìn chúng tôi mới trở về. Không một lời than vãn, bác sếu lớn bước ra nói với chúng tôi:


-“Các cháu à! Đừng làm như thế nữa! Giống nòi chúng ta sắp tiệt rồi!”


Một chị sếu trẻ đứng ra thét to với bác sếu già:


-“Bác đừng nói nữa! Cuộc sống ngoài kia đẹp lắm, sao cứ nhốt mình trong cái khu rừng nhỏ xíu này? Chúng cháu đã thấy tận mắt và cũng tiếp xúc với nhiều cái mới mẻ. Bác làm ơn dẹp cái óc cổ hủ, bảo thủ của bác đi. Để tụi cháu đi ra, để tụi cháu tự do bay nhảy”.


Vừa dứt tiếng, chị đập cánh bay trong đêm tối… và chị không bao giờ trở về nữa.


3.

-“Mẹ ơi! Chị sếu nói vậy là đúng hay sai?”


Mẹ thở dài, lấy mỏ quẹt vào đầu tôi, rồi trả lời thỏ thẻ:


-“Con à! Có đúng mà cũng có sai.”


-“Vậy lời bác sếu lớn nói là đúng hay sai?”


Mẹ cũng trả lời y như trước:


-“Có sai mà cũng có đúng!”


Tôi thắc mắc:


-“Vậy ai đúng ai sai?”


Mẹ lại mổ nhẹ lên đầu tôi, rồi trả lời:


-“Ai cũng có đúng có sai. Ngủ đi con!”


Rồi mẹ lại lấy cánh bịt đôi mắt lại, hình như mẹ khóc.


4.

-“Tôi sẽ đi thám thính tình hình! Tôi xung phong!”


Ba tôi lên tiếng trong cuộc họp đàn. Mọi bác và chú sếu đang bàn đến chuyện tìm một khu rừng mới an toàn hơn. Có chú sếu đề nghị bay về cánh rừng cũ dò la xem thế nào, vì tình hình mấy hôm nay không nghe tiếng máy cưa nữa. Ba tôi xung phong bay về xem khu rừng cũ cách hăng hái. Có lẽ ông nhớ… Mấy hôm trước ba có nói với tôi:


-“Ba nhớ khu rừng cũ quá! Nơi quen thuộc! Giờ ở chỗ tạm bợ này khó chịu và bứt bí quá!”


Một vài anh sếu trẻ xung phong bay theo ba tôi. Bác sếu lớn giao cho ba tôi làm trưởng nhóm. Dứt tiếng phân công, bầy sếu chừng chục con bay đi thật nhanh.


-“Đùng! Đùng! Đùng!…”


Sau gần mười phút bay, phía chúng tôi đứng chờ tin nghe một loạt tiếng súng nổ xé trời. Ai cũng lo lắng mong tin lành hơn tin dữ. Lát sau, một anh sếu trẻ còn sống sót hớt hãi bay về, miệng kêu từ xa:


-“Chết rồi! Chết hết rồi! rừng trụi hết rồi!”


Ba tôi đã chết trong chuyến thám thính ấy. Tôi và mẹ ôm nhau khóc trong ngậm ngùi. Nhìn lên bầu trời xanh, tôi thấy ba nhìn mẹ con tôi và mỉm cười. Ông cười vì ông được… chết trên “đất tổ” của mình.


5.

Tối hôm ấy, tôi nằm cạnh mẹ, lăn qua lăn lại chẳng ngủ được. Mẹ khóc thương nhớ ba. Tôi chợt nghĩ về hai cuộc ra đi của chị sếu trẻ và của ba tôi, cả hai đều không trở về. Giờ đây cái đúng và cái sai không còn là điều tôi quan tâm nữa. Tôi lấy mỏ khều mẹ, mẹ nhìn tôi với đôi mắt đỏ hoe, tôi nói:


-“Mẹ ơi! Con hiểu câu trả lời của mẹ rồi!”


                                                                                    Little Stream

11 tháng 4, 2021

Truyện ngắn: VỀ TRONG RA ĐI

 1.

-“Bà ơi! Bà xin cha xức dầu cho tui! Bữa nay tui thấy mệt trong người quá! Chắc không…”


Bà Tín lấy bàn tay gầy guộc chắn miệng chồng lại, mím môi như cố giữ để mình khỏi xúc động trước mặt chồng. Bà vừa cười vừa mếu máo đáp vội:


-“Ừa! Để tui đi mời. Ông ráng khỏe nha ông!”


Vừa đáp dứt tiếng, bà Tín đứng vội chạy vào phía sau nhà, khuất xa chiếc giường bệnh mà ông Tín đang nằm. Ông biết bà đi đâu và làm gì… bà đi… khóc.


Ông Tín phát bệnh tới nay gần ba tháng, căn bệnh ung thư bất ngờ đến, khiến ông từ một người to con và khỏe mạnh, lại trở nên gầy nhom và yếu đuối. Căn bệnh mà ông đang mang trong người đã tới giai đoạn cuối cùng, bác sĩ đã từ chối chữa trị cho ông vì họ không thể làm gì hơn được nữa. Bà Tín đã van xin các bác sĩ cố gắng, vậy là ông vẫn được vô vài đợt thuốc, nhưng sức ông không trụ được đã gục ngã hoàn toàn.


Ngồi tựa cửa nhìn chồng đau đớn, phía trên treo lủng lẳng những bịch nước biển, bịch máu và cả bịch đạm, dây nhợ cứ đeo quanh người ông chằng chịt, khiến bà Tín quặn thắt cả lòng. Nhiều lúc bà thấy ông cựa quậy, ráng nhích đôi tay như muốn cử động nhưng không cử động nổi nữa, bà biết ông muốn giật những dây nhợ ấy ra khỏi người, muốn chết cho vợ con ông đỡ vất vả.


Chứng kiến tận mắt sự suy sụp nhanh chóng của chồng, khiến bà Tín thêm xót xa và đau đớn. Bà chạy đến với thánh Giu-se, xin người bầu cử cho ông trước Thiên Chúa, xin Chúa khuấy động tấm lòng chai đá cứng tin của chồng mình.




2.

Ông Tín quen bà từ hồi đôi mươi, họ quyết định đi tới hôn nhân trong hạnh phúc. Ông là người khác đạo, còn bà là tín hữu Công Giáo, nên khi lấy bà ông cũng xin chịu phép rửa tội, chịu lãnh các bí tích, học giáo lý và làm lễ hôn phối trong nhà thờ.


Vì không là người giữ đạo từ tấm bé, nên sau lễ hôn phối ông dần lơ là việc giữ đạo. Không đi lễ Chúa Nhật, không xưng tội, không đọc kinh hay làm bất cứ việc đạo đức nào. Bà Tín càng sốt mến thế nào, thì chồng bà lại chểnh mảng chừng ấy. Bà khuyên ông hết lời, nhủ ông hết sức nhưng ông cứ khăng khăng chẳng chịu nghe.


-“Ông ơi! Bữa nay cha ghé thăm nhà mình! Ông…” Bà Tín báo tin cha sở sắp ghé thăm, ông ngắt ngang lời bà:


-“Cha nào? Ở đâu?”


-“Cha sở! Nhà thờ mình!” Bà trả lời ông.


-“Thôi! Tui đi công chuyện, chiều về!” Vừa dứt tiếng, ông khoát vội chiếc áo và đội nón bảo hiểm lên, rồ máy xe rồi chạy thật nhanh, bỏ mình bà Tín lại đón cha sở đến thăm.


Buổi gặp gỡ hôm ấy, bà nói với cha sở hết mọi băn khoăn, lo lắng của bà:


-“Cha ơi! Con chỉ mong một điều duy nhất. Con mong chồng con sống đạo tốt hơn, chỉ cần ổng chịu tin Chúa là con mừng lắm rồi!”


Cha sở chỉ thinh lặng trước những khắc khoải của bà Tín, trước khi ra về, cha nói:


-“Thôi con! Con kiên trì cầu nguyện, cha cũng thêm lời cầu nguyện với con. Con chịu khó chạy đến với thánh Giu-se, ngài âm thầm nhưng ngài hiểu hết con à! Đừng ép chồng con, một ngày nào Chúa muốn, ông sẽ tự khắc quay về!”


Tiễn cha ra cửa mà bà Tín vẫn còn nặng trĩu bởi những suy tư, nhưng bà cũng nghĩ đến lời khuyên của cha trước khi ra về.  


3.

-“Lạy thánh Giu-se, xin ngài đoái đến chồng con. Sự nguội lạnh của chồng con trước Chúa khiến con đau đớn vô ngần. Ước gì con được thấy chồng con trở lại đạo, cùng ông đi lễ, thấy ổng đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa. Con tin thánh Giu-se thấy và hiểu hết những khó khăn trong gia đình con. Xin ngài chuyển cầu cùng Chúa cho vợ chồng con.”


Bà Tín vẫn thường cầu nguyện trước tượng đài thánh Giu-se cách âm thầm như thế. Nhiều lúc bà con còn thấy bà vừa cầu nguyện vừa lau nước mắt, phải chăng bà đang lo lắng cho đời sống thiêng liêng, cho phần linh hồn của chồng mình. Cha sở, sau mỗi Thánh Lễ đứng từ nhà xứ nhìn ra thấy bà Tín, chỉ thinh lặng.


-“Ông ơi! Mấy dì phước cho tui tượng ông thánh Giu-se nè! Ông coi đẹp hông?” Bà Tín cầm bức tượng, mà lúc nãy sau Thánh Lễ dì Nhất tặng cho bà. Với thái độ cung kính, bà đưa bưc tượng nhỏ ra khoe với chồng. Ông đáp hặm hờ:


-“Ừa! Đẹp!”.


Bà hỏi thêm:


-“Ông thấy đặt tượng ở đâu thì hợp?”


-“Để đâu thì tùy bà!” Nói rồi ông bước ra trước cửa rít cho hết điếu thuốc còn dang dở trên hai ngón tay, khói tỏa lên từ điếu thuốc như nỗi phừng phừng trong lòng ông khi nghe bà nói tới Chúa hay Mẹ vậy.


Bà Tín thui thủi đặt tượng lên bàn thờ, dưới Thánh Giá chuộc tội được treo ở trung tâm bàn thờ trên cao. Rồi lại thầm thì cầu nguyện một mình.


4.

-“Xin mời bệnh nhân Trần Văn Tín, vào nhận kết quả khám bệnh!”


Ông đứng lên mạnh dạn, phủi áo, ho vài tiếng rồi bước đi mạnh mẽ vào phòng. Bà Tín lủi thủi xách đồ phía sau chạy theo ông, ông không quên quay lại thúc vợ: “Nhanh đi bà! Khám nhanh rồi còn về! Tui nói rồi, bệnh tật gì đâu mà bắt tui đi khám”.


Lấy tay vặn cánh cửa, vợ chồng ông bà Tín bước tới trước mặt bác sĩ, được mời ngồi, khuôn mặt bác sĩ đăm chiêu. Hồi sau ông Tín nôn về nhanh vì thấy bác sĩ lâu quá, ông hỏi:


-“Sao rồi bác? Tui vẫn ổn chứ? Tui thấy khỏe mà! Chỉ ho vài tiếng chứ…”


-“Ông Tín!” Bác sĩ ngắt lời ông “ông bị ung thư phổi, giai đoạn cuối!”


Vừa dứt tiếng, bác sĩ đưa tấm phim chụp phổi lên hộp đèn cạnh vách tường, hiện ra trước mắt ông bà ảnh chụp hai bên phổi chiếm hẳn những mảng màu trắng đục kỳ lạ, kèm theo lời giải thích của bác sĩ cho ông bà hiểu. Mắt ông Tín bắt đầu xuất hiện những đốm lửa đỏ ngầu, rồi ông ngã xụp xuống ngay lập tức.


5.

-“Bà ơi! Tui… Tui…”


Ông nằm trên giường bệnh nhìn bà Tín, vội kêu định nói gì đó, bà giữ bình tĩnh, chỉ đáp:


-“Thôi! Ông nghỉ đi! Tui mua gì cho ông ăn.”


Ung thư phổi giai đoạn cuối không chữa được nữa, bác sĩ dự đoán ông chỉ còn sống được vài tháng nếu tinh thần tốt; hoặc vài tuần, thậm chí là vài ngày nếu tinh thần suy sụp quá nhanh. Bà năn nỉ bác sĩ cố gắng chừng nào được chừng đó, bác sĩ ậm ừ đồng ý theo đề nghị của người nhà, phần vì thấy ông còn khỏe mạnh, to con và đủ sức chịu đựng. Nhưng chỉ sau vài đợt vô thuốc, ông xuống sức trầm trọng, bà đành đưa ông về nhà chờ.



-“Bà ơi! Tui sắp chết hả bà?”


Bà Tín nhìn chồng nằm với thân xác teo tóp trên giường, không trả lời, chỉ nín lặng lau mồ hôi cho ông, thi thoảng lật người qua lại để ông đỡ bị lở loét. Thi thoảng, bà động viên:


-“Ráng khỏe nhen ông!”


Rồi bà bắt đầu nói về Chúa cho ông nghe, nói cho ông về một hành trình mới mà ông sắp bước vào, nhằm chuẩn bị tinh thần thật tốt. Ông vừa nghe vừa ứa nước mắt.


-“Ông lần chuỗi với tui nha!” Bà đề nghị với chồng.


-“Ừa! Bà đọc đi, tui không thuộc nhưng sẽ nhẩm theo”. Vậy là bà Tín râm ran kề sát tai chồng để ông nghe kinh.


6.

Cả tuần nay, ông không ăn được nữa. Sức khỏe càng suy sụp, giờ chỉ còn da bọc khung xương trong người ông. Bà rước bác sĩ về truyền đạm cho ông, đồng thời ông cũng xuất huyết nhiều nên phải tiếp thêm máu cho ông nữa. Cả đêm ông không ngủ được vì đau đớn, có đêm ông thét lên:


-“Bà giết tui đi! Bà giết tui chết đi bà! Tui lạy bà, tui xin bà đó!”


Bà ôm lấy tấm thân nhỏ xíu của chồng, ôm rồi khóc nức nở, mặc cho ông cựa quậy. Trong cơn đau của chồng, bà kêu lên thành tiếng: “Giê-su! Ma-ri-a! Giu-se xin cứu chồng con!”. Bà ôm ông cả đêm như thế!


Ban ngày có vẻ ông mệt vì cả đêm đau đớn, nên thiếp ngủ được đôi chút. Bà Tín đã thức trắng đêm từ ngày ông phát bệnh, cả tuần nay ông yếu hẳn và đau nhiều, bà càng lo hơn, tóc bạc nhiều hơn tóc đen trên đầu bà.


7.

Bà Tín lay nhẹ vai chồng, ông đang thiếp đi vì đêm qua không ngủ được.


-“Ông ơi! Cha sở tới nè! Cha tới xức dầu cho ông nè!”


Ông Tín từ từ mở mắt, nhìn cha sở và cố mở lời chào cha.


-“Ông Tín ơi! Ông muốn xưng tội không?”


Ông ra hiệu bằng cách nháy mắt tỏ sự đồng ý. Cha đề nghị bà Tín ra chỗ khác để ông xưng tội. Đứng ở nhà dưới, nhìn cha sở kề sát tai bên ông Tín, ông  vừa nói vừa khóc, cuộc xưng tội hôm ấy kéo dài gần ba mươi phút. Bà Tín từ bếp nhìn lên, chắp hai tay tạ ơn Chúa, Đức Mẹ và thánh Giu-se, vì bà cứ sợ ông không kịp lãnh bí tích cần kíp.


Hồi lâu, cha gọi bà lên đọc kinh để cho ông lãnh của ăn đàng, và xức dầu bệnh nhân cho ông. Cha bẻ một góc rất nhỏ của Mình Thánh Chúa, cho vào miệng ông Tín, ông ngậm lấy và nhắm đôi mắt lại, nước mắt trào ra như một đứa trẻ.


Tiễn cha sở ra về, cha nói với bà: “Thánh Giu-se nhận lời bà rồi bà ơi! Đành rằng cái chết thì trước sau gì cũng đến, nhưng kịp lo phần linh hồn đã là một ơn lớn. Cùng cầu nguyện cho ông Tín nghe bà!”


Bà vui mừng vừa cám ơn cha vừa khóc.


8.

Các con ông Tín ở thành phố đã về, đã kịp nhìn cha lần cuối. Cả nhà đọc kinh cùng ông Tín trong những ngày cuối. Ông ra đi trong thanh thản và bình an.


Trong Thánh Lễ an táng, cha sở chia sẻ với bà con giáo dân tới dự lễ rằng:


“Thưa ông bà anh chị em! Ông Giu-se Tín đã ra đi trong ơn Chúa. Ông đã kết thúc cuộc đời dương thế và kịp lãnh nhận bí tích Giao Hòa, lãnh nhận Mình Thánh Chúa và lãnh bí tích xức dầu bệnh nhân. Trong tỉnh táo và ý thức, ông rất hiểu và ân hận vì những gì đã sống suốt khoảng thời gian qua. Chính lúc Chúa gọi ông ra đi, ông Giu-se cũng đã ý thức tới lúc trở về với lòng thương xót vô bờ bến của Người. Xin ông bà anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho ông Giu-se được sớm hưởng nhan thánh Chúa trên thiên đàng.”


Trong Thánh Lễ hôm ấy, bà con giáo dân thấy bà Tín khóc rất nhiều, nhưng khi nghe cha sở nhắc tới những ơn thiêng liêng mà ông Tín kịp lãnh nhận, bà đã mỉm cười, đôi tay chấp lại, miệng râm ran như đang thầm tạ ơn vậy!  


Little Stream

08 tháng 4, 2021

Truyện ngắn: TRỐN...!

 1.

-“Bé Nga ráng lên, anh em ta sắp thoát rồi!”


Giang vừa thở hổn hển, vừa cõng một bé gái tầm bảy tuổi nằm sấp mặt vào vai mình, hai tay bé gái chìa ra ôm lấy cổ Giang có vẻ đang lơi dần từng chút một. Khuôn mặt bé gái hiện rõ nét rất mỏi mệt và hơi thở có chút khó khăn.


-“Đứng lại! mấy đứa bụi đời khốn nạn! Đứng lại, không tao giết tụi mày!”


Có mấy thanh niên với tóc tai bù xù và quần áo xốc xếch, khuôn mặt bặm trợn đang chạy xe máy đuổi theo hai em, chúng vừa đuổi theo vừa hét inh ỏi cả khu phố. Chỉ còn vài trăm mét nữa là chúng có thể đuổi kịp hai đứa trẻ, đôi chân trần của Giang gần như kiệt sức, nhưng cậu vẫn cố chạy, vừa chạy vừa nói “mấy lần rồi! Hổng lẽ lần này lại không được…!”


Phía trước là một con hẻm, Giang cõng bé Nga chạy vào con hẻm đó, rồi tiếp nữa là một con hẻm nhỏ hơn, có lẽ hẻm này xe máy không chạy vào được, cậu liền rẽ vào đó, trong bụng chỉ mong hết con hẻm không là đường cùng, hoặc nếu là đường cùng thì có nhà nào đó sẽ thương tình cho hai anh em lánh nạn. Đám thanh niên đã bỏ xe ngoài đầu hẻm chạy bộ đuổi theo hai anh em, con hẻm càng lúc càng tối. Giang không chắc phía trước mình là đường thoát, nỗi sợ hãi dâng lên tột độ. Cậu không lo cho mình mà lo cho bé Nga sẽ lại bị người ta đánh đập và bắt đi bán vé số lay lắt ngoài vỉa hè. Lấy hết can đảm, Giang đâm vào bóng tối đen ngòm ấy, chạy mãi, chạy mãi, cuối cùng một ánh sáng lóe ra, to dần, to dần, cậu mừng vui khôn xiết. Ra khỏi con hẻm, Giang tiếp tục chạy, đôi chân đã kiệt sức, mắt long lên những ngôi sao xanh đỏ, hai tay ôm bé Nga thõng ra, cậu lịm xuống mà không biết mình đang ở đâu, chỉ biết hình ảnh cuối cùng mà cậu nhìn thấy là một dãy nút màu đen chạy từ phía dưới lên phía trên, và một tấm vải phất phơ chạm vào da mặt của cậu.



2.

Giang và Nga không là hai anh em ruột thịt. Nhà Giang ở miệt miền Tây, còn bé Nga chẳng biết ở đâu nữa. Cả hai anh em đều bị bắt vào đường dây buôn bán trẻ em cách bất ngờ, những bé khác đã bị đưa đi bán hoặc có những bạn đã chết vì không chịu nổi những trận đòn khủng khiếp của bọn người gian ác này, chỉ còn hai anh em Giang và Nga, thế là Giang hiểu rằng phải có trách nhiệm bảo vệ Nga, như bảo vệ em ruột của mình vậy.


Gia cảnh nhà Giang cũng đầy khó khăn, nhất là công việc đồng áng dưới quê không đủ để nuôi sống gia đình với gần chục miệng ăn. Vì thế, Giang trong vai trò là con cả phải hy sinh, chịu gửi lên thành phố làm kiếm tiền gửi về phụ ba mẹ nuôi các em. Ba mẹ của Giang vì nhẹ dạ, nên vô tình gửi con mình vào đường dây buôn bán trẻ em mà không biết, hậu quả là ngày trở về gia đình của cậu vô cùng mong manh.


Bé Nga lúc bị bắt vào mới hơn ba tuổi, là một đứa bé chập chững biết đi, xinh gái và dễ thương. Vì quá nhỏ nên Nga không thể biết mình quê ở đâu và bị bắt trong hoàn cảnh như thế nào. Mới đầu chủ đường dây cử một cụ già bồng bé Nga đi ăn xin, chúng làm cho da bé Nga ra sần sùi từ những vết bỏng của thuốc lá, cố tình làm rách những mảng da trên mặt và tay của bé để người ta thấy mà thương tình, sẽ cho nhiều tiền hơn. Tầm sáu tuổi, chúng đã bắt bé đi bán vé số. Ngày nào không bán hết hay bị người ta giật vé số, là bé bị chúng đánh đập tàn nhẫn, bỏ đói và nhốt vào phòng tối.


Chúng đối xử với Giang không thua gì Nga, tuy nhiên vì Giang đã lớn và có ý thức, nên cậu biết cách né tránh những trận đòn hoặc những mưu mẹo của bọn gian ác, nhưng số lần cậu né được là rất ít. Cũng như Nga, mỗi lần không bán hết vé số hoặc bị mất vé, là cậu bị chúng đánh đập không thương tiếc, hăm dọa giết nếu chúng muốn.


3.

-“Bé Nga nè! Bé Nga muốn trốn thoát chỗ này không?”


Giang dọ hỏi bé Nga trong một góc tối, nhân lúc đám thanh niên canh cửa không để ý. Cả hai gật gù, bàn tính, nhưng suy tính trong đầu những đứa trẻ không thể thoát được mưu tính của đám thanh niên kia. Cứ mỗi lần trốn là mỗi lần bị bắt về, bị lột sạch quần áo, bị đánh đập tàn nhẫn và bỏ đói mấy ngày liền. Nỗi sợ trong tinh thần của bé Nga ngày càng lớn, khiến những lúc Giang hỏi Nga về việc chạy trốn, là những lúc bé rúc người lại và run cầm cập như một phản xạ tự nhiên.


Cũng có lúc hai anh em dự định chạy trốn đang khi đi bán vé số trên vỉa hè, nhưng tai mắt của đường dây buôn người ở khắp nơi, làm sao trốn thoát được. Hơn nữa, thân trẻ bụi đời không cha mẹ thì ai mà dám chứa chấp.


Có lần chúng đưa cho Giang một bịch nilon đen, bên trong đựng thứ gì đó bột bột mà khi lấy bàn ta bóp vào Giang cảm nhận được, chúng kêu cậu chạy qua phố bên cạnh đưa cho một người mà chúng cho địa chỉ. Linh tính cho hay đó hoặc là ma túy hoặc thứ gì đó không lành, cậu từ chối thẳng thừng trước mắt chúng, đám thanh niên tát vào mặt Giang mấy cái điếng cả người, nhưng cậu vẫn không làm vì cậu biết điều gì sai, điều gì đúng. Thà bị đánh chết còn hơn bị bắt vô tù.


4.

-“Anh Giang thuộc bài hát nào hông? Hát bé Nga nghe đi!” Bé Nga nằm cạnh Giang, hỏi nhỏ vào tai cậu đang lúc nửa đêm.


-“Thuộc, anh có thuộc mấy bài hồi đó nghe mẹ hát ru mấy đứa em! Để anh hát cho nghe nha!”


Giang thầm thì trả lời Nga. Cô bé vui mừng vểnh tai đưa sát miệng Giang để nghe, vì sợ làm ồn sẽ bị đám thanh niên dần cho một trận.


-“Hò…ơ…ơ…! Gió đưa bụi chuối sau hè, anh mê vợ bé bỏ bè con thơ…. Hò…ơ…ơ! Má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu…” hát tới đó Giang đưa tay dụi đôi mắt và xoa lên gò má đang nóng dần khi nhắc tới quê hương, ba mẹ.


-“Má tụi mày! Có im cho tụi tao ngủ không? Đập chết mẹ tụi mày bây giờ!”


Một thanh niên canh cửa la làng lên giữa đêm, hai em anh nằm im thin thít. Hồi sau, thấy có vẻ chúng đã ngủ, bé Nga lại khều anh Giang, muốn nghe nữa. Lần này, cậu khéo hát nhỏ hơn như rót vào tai bé Nga:


-“Hò…ơ…ơ! Còn cha còn mẹ thì hơn, không cha không mẹ… hò.. ơ…ơ… không cha không mẹ như đờn đứt dây”, hát rồi bé Nga siết người Giang, khóc nức nở, Giang chỉ biết xoa đầu em, nước mắt cũng ràng rụa, giọt nước mắt tràn trề không phát ra tiếng, chỉ có những đợt thút thít nhè nhẹ trong đêm đen thăm thẳm.


5.

-“Chú ơi! Mua vé số giùm con!”


Bé Nga chìa xấp vé số nằm trong bàn tay nhỏ xíu, khuôn mặt nhỏ đáng thương lộ rõ nét van xin người ta mua vé số cho mình.


-“Không mua đâu mày! Đi đi!”


Bé cố nài nỉ:


-“Đi mà chú! Mua giùm con đi chú! Một tờ có mười ngàn, trúng tỷ rưỡi, tha hồ cất nhà lầu, mua xe hơi…” Nga xổ một tràng lời mời dài ngoằng mà bé nghe những người bán vé số hay nói, nhờ học lóm cách buôn bán mà bé bán cũng được kha khá.


Đang đi dọc vỉa hè, một người đàn ông chạy xe honda cũ, tuổi tầm năm mươi, kêu bé lại:


-“Con ăn gì chưa? Chú mua cho con ăn?”


Nga nhìn người đàn ông lạ hoắc trước mặt mình. Tóc đã nhiều sợi bạc, khuôn mặt có nếp nhăn, đeo kính dầy cui, nhưng nhìn rất hiền lành. Trên cổ áo đeo cái gì là lạ, giống như miếng nhựa màu trắng, ăn mặc khá lịch sự với áo sơ-mi, quần tây, nhất là giọng nói rất hiền và nhẹ nhàng. Bé trả lời người đàn ông:


-“Dạ chưa!”


Người đàn ông vội rút ra ổ bánh mì thịt trong chiếc cặp đã sờn cũ và bay màu, đưa cho bé, rồi hỏi:


-“Con còn bao nhiêu tờ vé số?”


Nga vừa ngấu nghiến ổ bánh mì, vừa chìa xấp vé số cho người đàn ông xem. Gần năm chục tờ, người đàn ông rút ra tờ năm trăm ngàn đưa cho bé, rồi nói:


-“Chú mua hết! Con về đi!”


Nhìn dáng đứa bé bảy tuổi vui mừng cầm tiền chạy về, nhảy chân sáo, người đàn ông cũng vui mừng khôn xiết.


6.

Chiều hôm đó, có lẽ do đi nắng buổi trưa mà không đội nón, nên bé Nga hơi mệt trong người, tay chân nóng hổi mà miệng kêu lạnh. Gượng tới gần sáng, Giang kêu to:


-“Mấy chú ơi! Bé Nga phát sốt rồi! Vô coi giùm đi!”


Hai thanh niên canh cửa chạy vào, thấy bé Nga nằm im ỉm trên tấm phản trong căn phòng tối thui, chúng rờ lên trán bé rồi giật nảy mình vì nhiệt độ quá cao, chẳng khác gì lửa. Chúng vội ra ngoài xa xa bấm điện thoại gọi cho chủ đường dây, trong này Giang xốc người Nga lên vai rồi lén chạy ra ngoài, hồi sau chúng đuổi theo la inh ỏi, hai chân cậu chạy thục mạng.


-“Ráng lên Nga ơi! Ráng lên!” Giang vừa xốc Nga trên vai, vừa chạy, vừa nói. Giờ đã hơn ba giờ sáng.


7.

Giang đã tỉnh, nghe da thịt mình mát lạnh, cậu không dám mở mắt ra vì không biết mình đang ở đâu, nhỡ bị đám thanh niên bắt đưa về thì… Hai tai cậu cố tập trung nghe những tiếng nói xung quanh:


-“Dì lấy giùm tôi miếng nước ấm lau người cho bé nha!” giọng nói một người đàn ông là lạ.


-“Cha ơi! Nhà cha còn bông băng và cồn không?” giọng một phụ nữ trung niên cũng là lạ.


Chợt Giang cảm thấy có bàn tay đang chạm tới bàn chân của mình, khiến cậu đau kinh khủng, nhưng vẫn chưa dám mở mắt vì sợ… Đôi chân chạy quãng đường dài đã sưng rộp lên, có chỗ bị rách tứa máu, nên bất kỳ đụng chạm nào nhè nhẹ cũng tựa như hành hạ thân xác Giang vậy. Bụng rầm rì van xin cho người đang đụng vào vết thương của mình không là đám thanh niên, mà nếu là đám thanh niên thì chúng đã không nhẹ tay như thế, hẳn là chúng đã tạt vào mặt cậu một thau nước dơ, rồi đánh đấm túi bụi. Suy nghĩ ấy khiến Giang an tâm, cậu hé mí mắt chút xíu rồi khép lại. Chợt cậu nghe:


-“Dậy đi con, cha biết con tỉnh rồi! Đừng giả bộ nữa! vết thương đau lắm phải không?”


Lần này hết giấu, Giang mở mắt từ từ. Căn phòng trắng tinh với tám trải giường sạch sẽ. Cậu thấy mình đang mặc trên mình một bộ quần áo mới thơm phức chứ không phải bộ đồ rách nát như mọi khi, xung quang căn phòng là những bức ảnh lạ hoắc về một người đàn ông tóc dài, có râu, trái tim lộ ra ngoài, và người đàn ông ấy còn lấy ngón tay chỉ vào trái tim mình. Nhìn tiếp, Giang lại thấy một cây gỗ chữ thập, treo một người đàn ông khuôn mặt cũng giống khung hình lúc nãy, nhưng lần này ủ dột, đau đớn và hình như ông đã chết. Giang nhìn xuống cuối chân giường, người đang đứng trước mặt cậu không phải đám thanh niên hung hãn, mà là một người đàn ông cũng lạ hoắc, hiền lành và đang nở nụ cười phúc hậu.


Chợt Giang sực nhớ tới bé Nga, cậu hỏi:


-“Còn bé…”, người đàn ông chỉ sang giường bên cạnh, thấy bé Nga cũng đã được thay bộ đồ mới, nằm ngủ ngon lành, Giang thở phào nhẹ nhõm.


Hồ sau bé Nga tỉnh lại, tay chân quờ quạng, người đàn ông chạy tới giữ hai tay bé lại, bé càng la to hơn:


-“Buông cháu ra! Buông ra! Đừng đánh cháu! Đau lắm! Xin mà…!” Vị linh mục giữ bé lại và kêu bé thức dậy, Nga nhận ra ngay người đã cho mình ổ bánh mì thịt trưa hôm qua:


-“Chú! Chú….” Vị linh mục vội đáp “Ừ! Chú đây! Nghỉ đi con, anh em con an toàn rồi!”.


8.

Chỗ mà lúc nãy Giang ngã quỵ xuống là sân nhà thờ. Dãy nút màu đen chạy từ dưới lên, với mảnh vải phất phơ chạm da mặt Giang là chính chiếc áo chùng thâm của vị linh mục vẫn còn vận trên người sau Thánh Lễ buổi sáng. Lúc cậu ngã ra giữa sân tức thì vị linh mục và giáo dân liền chạy tới. Đám thanh niên vừa tới sân, thấy mọi người dìu hai bé vào trong, chúng không dám làm gì nữa vì vừa tan lễ sáng, giáo dân vẫn còn khá đông ở sân nhà thờ.


Sau khi hai anh em lành bệnh, vị linh mục liên lạc được với gia đình Giang để đưa cậu về với cha mẹ, còn bé Nga phải vất vả hơn vì từ ngày ra đi bé còn quá nhỏ, chưa biết gì về nơi ở của mình. Vị linh mục phải nhờ tới công an hỗ trợ, đồng thời cũng khai báo về nhóm buôn bán trẻ em đang lộng hành trong khu vực mà bé Nga và Giang là hai chứng nhân cụ thể.


Ngày chia tay hai em, cả giáo xứ dâng Thánh Lễ tạ ơn và cầu bình an cho hai gia đình. Thánh Lễ trang nghiêm và sốt sắng, niềm vui hòa trong nước mắt.


                                                                                    Little Stream

04 tháng 4, 2021

Truyện ngắn: ẤM LÒNG

NGHE AUDIO TRUYỆN TẠI ĐÂY 

1.

-“Alo! Chị…”


Nga đưa bàn tay lên phía đầu giường bấm công tắc đèn ngủ. Tiếng chuông điện thoại reo lên vào nửa đêm khiến giấc ngủ của cô bị phá vỡ.


-“Nga ơi! Có xác thai nhi mới bị bỏ ở thùng rác phía sau…”


Nga bừng tỉnh, thay đồ thật lẹ rồi cầm xe chạy đi rước chị Thanh, hai chị em cùng tới chỗ lấy xác thai nhi mà người ta vừa mới bỏ.




2.

Nga và Thanh là hai trong số nhiều thành viên của nhóm Bảo Vệ Sự Sống của giáo xứ. Cả hai đều có công việc ổn định, đồng thời là những thành viên đắc lực của giáo xứ. Hai người bạn thường hay đi lễ và cầu nguyện cùng với nhau. Có lần Nga biết đến nhóm Bảo Vệ Sự Sống của giáo xứ có nhiều người tham gia, cô cũng lân la hỏi thăm, rồi sau đó rủ Thanh cùng tham gia vào chương trình này.


Vì là hai bạn trẻ nên Nga và Thanh hăng hái đăng ký ngay việc nhặt xác thai nhi. Từ đó cả hai bắt mối làm quen với nhiều phòng khám, bệnh viện hay thậm chí là những cơ sở nạo phá thai “chui”, để khi có bất kỳ thai nhi nào bị bỏ, vào bất cứ lúc nào hay xa xôi cách mấy, thì Nga và Thanh cũng tới nơi để rước sinh linh bé bỏng ấy về.


Cả hai cũng chẳng ngần ngại bỏ tiền túi đi tới nhiều nơi khác nhau, miễn làm sao để đưa những thai nhi về, giúp các em được chết xứng đáng nhân phẩm của một con người. Nhiều lúc ôm những cục máu trong nhiều lớp túi nilon, ngồi sau xe của Nga, Thanh nói:


-“Các em nếu được sinh ra chắc kháu khỉnh và đẹp lắm! Nhưng…”


Nga chỉ biết thing lặng cầm tay lái mà chạy nhanh về nhà, vì những suy nghĩ xúc động thoáng qua có thể khiến cô không vững tay lái nữa.


3.

-“Phải chỗ này không chị Thanh?” Nga và Thanh dừng xe trước một con hẻm tối thui, Nga hỏi Thanh để xác minh thông tin.


-“Đúng rồi em! Hẻm này đây. Nhưng giờ khuya rồi, chạy xe vào sẽ làm ồn người khác sợ họ nghĩ mình là ăn trộm. Thôi để xe ngoài này, hai đứa đi bộ vào đó…”


Nga ậm ờ suy nghĩ rồi gật đầu đồng ý. Dáng hai người phụ nữ dần khuất bóng trong con hẻm, càng đi sâu càng tối, vì lạ đường nên cả hai loạng choạng. Thanh vô tình đá trúng một khúc cây nhỏ trên đường, chó sủa lên vài tiếng, cả hai ép sát vách tường đợi lúc chú chó im tiếng rồi tiếp tục.


-“Tin… Tin… Tin…” Một chiếc xe mô tô chạy từ tuốt sâu con hẻm chạy ra, một thanh niên tầm hai mươi tuổi chở phía sau mình một cô gái, Nga thoáng nhìn hình như cô gái đang khóc, còn chàng thanh niên rồ ga rồi chạy thật nhanh, chó sủa inh ỏi.


Thanh kề sát tai Nga, nói nhỏ:


-“Hình như đàng trước kìa!” Thanh lấy ngón tay chỉ về phía trước, một căn nhà nhỏ lụp xụp được rào chắn bằng lưới B40, phía trong hàng rào là những hàng gạch cũ kỹ, bóng đèn dây tóc màu vàng cứ mờ mờ khiến Thanh và Nga chẳng thể quan sát rõ bên trong. Nga ghé tai sát tường để nghe tiếng động bên trong. Những tiếng nói vọng vào tai cô:


-“Vô đi em! Xíu là xong rồi! Nhanh lắm!”


-“Nhưng… nhưng… đau lắm!”


-“Không đau đâu! Bác sĩ ở đây chuyên nghề mà, sao đau được!”



Cuộc trò chuyện giữa một thanh niên với một cô gái, nghe giọng đoán chừng hơn đôi mươi. Nga rướn người lên cao một chút để nhìn qua ô gạch bể, cô thấy một người phụ nữ mặc trên người áo thun và quần jean, vén màn bước ra dắt theo một cô gái trẻ vào trong, chàng thanh niên vẫn ngồi yên tại chỗ phì phèo điếu thuốc.


-“Đúng rồi chị Thanh ơi! Nó đó!”  Nga kêu nhỏ vào tai Thanh xác minh đã đúng chỗ cần tìm. Thanh bàn tính:


-“Đây là cửa trước, chắc chắn thùng rác y tế đặt ở cửa sau, chị em mình tìm cách ra phía sau xem sao?”


Hai người đi tới cuối hẻm, ngã ba trước mặt, cả hai rẽ trái rồi rẽ trái thêm lần nữa tại ngã ba tiếp theo. Cuối cùng đã đứng trước khu vực rác y tế của phòng khám. Nga nhìn xung quanh xem có ai đang theo dõi hoặc đi ngang hay không. Sau đó, cô đeo khẩu trang, găng tay và lần mò từng thùng rác. Thanh cầm điện thoại bật chế độ đèn pin dọi cho Nga thấy rõ. Đang lúi húi lục tìm, chợt người phụ nữ áo thun quần jean bước ra, trên tay cầm một túi nilon màu đen, Thanh khều Nga kêu cô núp xuống. Người phụ nữ lạ mặt mở nắp thùng rồi vứt chiếc túi màu đen vào, chiếc túi rơi xuống phát ra âm thanh “bịch!”. Thanh bấm điện thoại xem giờ, gần ba giờ sáng.


Sau khi người phụ nữ bỏ đi, Nga mở ngay chiếc thùng mà người phụ nữ lạ mặt vừa bỏ chiếc túi nilon màu đen vào. Cô cầm ngay chiếc túi mở ra…lặng người… rồi cô khóc. Thanh dọi đèn vào chiếc túi… nhìn rồi cô cũng khóc.


Nhìn vào chiếc thùng, gần cả chục chiếc túi màu đen như thế. Hai chị em lấy từng túi, cột kỹ lưỡng rồi cho vào chiếc túi kín lớn hơn. Chị em vừa làm vừa xúc động, miệng lầm rầm lời kinh Kính Mừng và lời kinh cầu cho các linh hồn. Sau gần hai mươi phút sắp xếp, hai người nhanh chóng rời chỗ ấy ra xe về.


4.

Đã bao nhiêu lần Thanh và Nga thực hiện những chuyến cứu thai nhi trước khi chúng bị đưa ra bãi rác. Thậm chí có lúc chị em phải đối mặt với những kẻ hung tợn, chỉ vì hai cô quyết dành lại quyền được chết như một con người của những thai nhi bé bỏng. Nga đã từng nhập viện vì bị những tay bảo vệ, hoặc những kẻ côn đồ đánh vào đầu. Vết thương chi chít trên thân thể Nga và Thanh sau những chuyến đi như thế là điều khó tránh khỏi.


Rước các em về, Thanh và Nga lo cho các em những bước cuối cùng để các em được yên nghỉ. Những chiếc hộp lớn nhỏ khác nhau, những chiếc túi nilon nhiều kích cỡ, những chiếc tủ lạnh đông đá và không thiếu những con gấu bông xinh xắn mà Nga và Thanh mua sẵn để tặng các em như những món quà.


Trong phòng ngủ, Nga treo tấm ảnh mẹ Teresa Calcutta đang bế một bệnh nhân gầy còm, đôi mắt của mẹ rực sáng và nở nụ cười với người bệnh nhân ấy. Mỗi lần Nga thấy mệt mỏi sau những chuyến đi cứu xác thai nhi, cô hay nhìn lên nụ cười của mẹ. Nụ cười ấy khiến cô thấy bừng tỉnh, thêm sức mạnh và cố gắng công việc đầy khó khăn, nguy hiểm này.


5.

Về đến nhà, Nga và Thanh bật đèn sáng, lấy từng chiếc túi đặt trên bàn. Mở từng túi và làm vệ sinh sạch sẽ những cái xác bị lẩn trong máu và đất. Rồi đặt từng thai nhi bé bỏng, thậm chí chỉ là những cục máu vào chiếc hộp nhỏ, xếp ngay ngắn trên bàn.


Hai người đốt ít trầm hương trước bàn thờ Chúa. Nga thầm thĩ cầu nguyện:


-“Lạy Chúa! Chúng con cám ơn Chúa cho chuyến đi tối nay của chị em con được bình an, cứu được những xác thai nhi về an toàn. Xin Chúa đón nhận linh hồn các em. Xin Chúa cũng đánh động lương tâm những người cha, người mẹ. Cho họ biết ăn năn hối lỗi vì những điều mà họ đã làm. Xin Chúa cũng tha thứ tội lỗi cho họ.”


Hương trầm lan tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng cho cả gian phòng. Nga nhắm mắt lại tưởng tượng những khuôn mặt thiên thần đang mỉm cười thật tươi, chúng gọi Thanh và Nga là mẹ Thanh và mẹ Nga. Cô mỉm cười hạnh phúc.


Chiếc điện thoại của Nga lại reo lên:


-“Alo…”


                                                                                    Little Stream

02 tháng 4, 2021

Thơ: ÁNH MẮT

 Có ánh mắt làm Baraba ngần ngại,

Chân bước đi mà lòng chẳng tự do,

Có Chúa chết thay, đáng phải reo hò,

Nhưng sao thế, phải chăng lòng bối rối?



Có ánh mắt là Philatô chần chừ,

Cứ phân vân: đâu là sự thật?

Dẫu rửa tay, không màng về cái chết,

Nhưng phải chăng lòng đã dứt phân vân?




Có ánh mắt làm Maria thổn thức,

Tựa lưỡi gươm đâm thâu tim thôi.

Con lớn khôn, tuy ngã vẫn bồi hồi,

Lòng đau thắt, ôi con yêu của mẹ.



Có ánh mắt làm Hêrôđê sửng sốt,

Dẫu hỏi tra mà chẳng thấy trả lời,

Cố vặn lời, mà Chúa vẫn im hơi,

Ôi sao thế! Phải chăng mình không đáng?



Có ánh mắt làm Mađalêna bật khóc,

Nước mắt thương Thầy, nước mắt tri ân,

Bởi công ơn xin ghi đến muôn phần,

Cũng không đủ trả ơn Thầy bố thí.



Có ánh mắt làm Gioan nín lặng,

Phút hồi tâm, để ghi nhớ ơn Thầy.

Nhớ phút sum vầy, đây phút chia tay,

Mong đến lúc gặp Thầy như đã hứa.



Có ánh mắt làm đội trưởng thảng thốt:

“Thật đây là Con Thiên Chúa tối cao.”

Ngắm say sưa nguồn máu nước tuôn trào,

Phải chăng đây là cách Ngài cứu độ?



Có ánh mắt đã làm con say mến,

Hiền dịu, nhân từ, nhỏ nhẹ, thiết tha.

Đã đưa con về từ nẻo gian tà,

Và đã chết cho con được vui sống.


                                                                            Little Stream