30 tháng 11, 2022

Truyện ngắn: GHE HÀNG BÔNG

 1.

-“Ê! Xuống bưng hai bình bông lên!”


Má ngồi chồm hổm giữa lòng ghe, giữa hai hàng bông vạn thọ vàng nghế. Thằng Thiện ghét cái mùi hăng hắc phát ra từ cái loài bông đó. Mỗi khi nó tới gần hai bình bông vạn thọ mà má hay đặt trước hai góc cột nhà mỗi dịp tết, là nó nhảy mũi liên tục. Nhưng sở thích bông vạn thọ của má đâu dễ dứt được. Với má, nó là loài bông kỷ niệm khó quên. Thành thử tết năm nào má cũng mua đúng hai chậu đẹp nhứt, bắt mắt nhứt chưng trước cửa nhà.


Sà người ôm hai bình bông tay má chuyền từ mũi ghe lên, thằng Thiện cặp vô hai hông hai bên để mấy cái bông mắc ôn mắc dịch đừng chổi vô cái lỗ mũi của nó. Má cười khẽ khàng nói kháy:


-“Trời! Dòng cái thứ đàn ông con trai gì cơ bắp cuồn cuộn mà sợ mấy cái bông!”


Thằng Thiện giận lẫy trả lời:


-“Má kỳ quá! Người ta mần từ sáng tới giờ hổng khen mà còn ở đó dè biểu!”


Má như hổng nghe lời nó, quay xuống nói chuyện với cô chủ hàng bông tỉnh bơ:


-“Rồi cưng lên trên trển hay xuống miệt Bà Tồn?”


Cô chủ vừa đưa tay sửa lại mấy bình bông, không quên ngó mặt má trả lời:


-“Dạ chắc xuống miệt Bà Tồn chế ơi! Dưới đó bán đặng hơn khúc trên! Để bán xong dưới miệt em quầy ngược lên trên trển cũng vừa kịp tết. Nay mới hai lăm chớ nhiêu!”


Má hỏi tiếp:


-“Ờ! Tranh thủ về nhà ăn tết với xấp nhỏ! Chắc nó trông! Mà của chế hết bao nhiêu?”


Cô chủ hàng bông trả lời nhẹ nhàng:


-“Chỗ chị em! Chế cho em giá vốn thôi! Ba chục ngàn nghen chế!”


Má nhìn cô chủ cười tươi:


-“Cái con này! Làm như giàu có lắm không bằng bày đặt!”


Rồi má dúi vô túi cô chủ trẻ năm chục ngàn, rồi bước lên bờ, cô chủ hàng bông cám ơn má rồi lui ghe. Tiếng máy ghe “Tạch! Tạch! Tạch!” đều đều rồi nhỏ dần.




2.

Má đâu chỉ thương mỗi cô chủ ghe hàng bông đó, mà hễ thấy ai bán ghe hàng bông má cũng thương quá trời. Ngoắc vô nói chuyện như quen nhau từ mấy kiếp trước hổng bằng. Hễ chủ ghe là đàn ông thì má hỏi chuyện vợ con. Hễ là mấy bà thì má hỏi chuyện chồng con. Ai chưa chồng con thì hỏi chuyện cha mẹ. Ai mất cha mẹ mà chưa lập gia đình thì hỏi chuyện anh chị em. Còn ai ở mình ên thì má chọc:


-“Mày bán ghe! Lên bờ ở với tao!”


Nhiều hôm chủ hàng bông là cậu thanh niên trẻ măng cười ngượng ngùng trước lối chọc của má, ảnh gãi đầu gãi tai hổng biết trả lời làm sao, má biểu:


-“Tao biểu lên ở làm con nuôi của tao, chớ biểu làm chồng tao đâu mà mắc cỡ. Ngữ cỡ mày mấy đứa kêu tao bằng má rồi con.”


Nói xong má cười nắc nẻ. Vậy là anh ta đỡ ngượng ngùng trước lời chọc của má. Từ nhà dòm ra, thấy má ngồi chồm hổm trước mũi ghe mà thấy thương quá chừng. Có hôm ngồi nói chuyện nguyên buổi mà quên mua bông ủng hộ, mà mấy người bán hàng cũng mắc cỡ hổng dám nhắc. Thấy má đang đi vô tay không, ghe hàng bông đã đi rồi, thằng Thiện đứng trước sân chọc má:


-“Í trời đất ơi! Ngồi tám nguyên buổi mà hổng mua gì ủng hộ. Gặp mười người như má chắc người ta lỗ chết!”


Má đứng lại như nhớ mình quên mua tiếp người ta, lấy hai tay vỗ cái “đép!”, biểu:


-“Trời! Tao quên mất tiêu! Thiệt! Mà… cái con bán nó dễ thương quá! Y như… tao hồi đó!”


 


3.

Kể tới đây chắc ai cũng hiểu vì sao má hay thương mấy người bán bông trên ghe, vì… đó là nghề của má trước khi ba cưới má. Từ hồi ba má cưới nhau thì cả hai lên bờ cất nhà rồi sinh ra thằng Thiện. Má kể má bán bông trên ghe chắc có gần hai chục năm. Từ hồi năm tuổi đã đi ghe hàng bông với ba má là ông bà ngoại của thằng Thiện. Má lớn lên thì tiếp nghề cha mẹ để lại. Ăn, ngủ trên ghe suốt mấy chục năm nên… má nhớ.


Thằng Thiện được sinh ra ở trên bờ nên không biết cảm giác ở trên ghe như thế nào ngoài lời kể lại của má. Má biểu ở trên ghe sướng lắm! Được đi đây đi đó thoải mái, chẳng ai giữ chân làm mình bận bịu. Với lại ở gần sông nên cái gì cũng tiện. Ăn uống dễ dàng vì muốn ăn gì thì tấp chỗ bán thứ đó mà mua. Tới cơn ngủ thì cứ tấp ghe vô bụi ô-rô tạm vài tiếng rồi đi tiếp. Thêm mấy cái bông vạn thọ hồi thời ông bà ngoại với má bán thì chạy hàng dữ lắm! Tại hồi xưa bông hiếm, chỉ mỗi tết người ta mới chưng nên cứ lên vựa lấy bao nhiêu chất cho đầy ghe, chạy vòng vòng vài ngày đã gần hết. Trong năm cũng chạy ghe đi bán nhưng mua bán hổng chạy, vì người ta chỉ mua vào dịp rằm hay dịp cúng kiếng, nên trong năm thì lấy ít bông hơn, còn tết thì cứ chất đầy ghe.


Thiện nghe má kể mà tít mắt thích thú vì chưa có dịp ngồi ghe như má. Nó cũng muốn có ngày ngồi ghe đi bán bông như má. Nghe nó nói lên mơ ước, má rầy:


-“Cái thằng khùng! Bán cực chết mẹ chớ sung sướng gì mà đòi đi!”


Thiện cãi lại:


-“Má mới biểu bán bông trên ghe sướng lắm! Giờ lại nói khổ! Ngược đời quá!”


Má ậm ờ phân bua:


-“Ờ! Thì sướng với mấy người quen ở trên ghe! Còn mày từ hồi sinh ra tới giờ có ở trên ghe ngày nào mà khoái. Say sóng ói tới mật xanh. Rồi mắc vệ sinh có dám…”


Nói tới chuyện vệ sinh thằng Thiện phủi tay “Thôi! Thôi! Nghe ghê quá! Hổng đi ghe nữa đâu!”. Má biết thằng Thiện kỹ tính, nó kỹ và sạch như ba nó, nên nêu vài lý do như vậy là đủ khiến nó ngại ngùng. Má nhìn thằng con năm nay cũng đã lớn, sắp lên Sài Gòn học chứ ít ỏi gì. Nhìn đăm đăm mà cười như thể hồn má để chỗ nào ấy.


4.

Mà cái chuyện đi ghe hàng bông là cực khổ hình như có thiệt. Nghe kể hồi đó ba bắt má phải bán ghe mà lên bờ. Hồi mới quen ba biểu:


-“Em thương tui thì hai đứa mình lên bờ. Dưới ghe lênh đênh tối ngày cực lắm! Hơn nữa phận gái đi lênh đênh tui nghĩ mà tội cho em lắm!”


Má chẳng bao giờ kể những khổ cực của cái thời sống trên ghe vì má chỉ muốn giữ những gì đẹp nhứt thôi. Thiện chỉ biết những khổ cực ấy khi nghe ba kể lại lúc ba còn sống. Bịnh tật hổng có ai hay biết, một mình tự ngâm khăn đắp trán hạ sốt, rồi hổng bớt thì ghé thầy Ba, thầy Tư ngoài chợ bốc ít thuốc để sắc uống. Thuốc cũng tự nấu, hổng nhai cơm được thì tự nấu cháo mà nuốt. Để nồi cháo mệt quá ngủ quên thì húp được khúc trên, khúc bị khét thì cạo cho tụi cá dưới sông ăn.


Rồi mấy khi bị người ta chọc ghẹo, hăm he. Nhất là khi cập ghe kế mấy ghe hàng khác. Dù ghe người ta đâu có bán bông như má, nhưng họ cũng tị nạnh mà đuổi má đi. Nhiều hôm bị mất mấy bình bông oan uổng chỉ vì lui ghe hổng kịp, họ thọt tay chụp mấy bình bông biểu: “Cái này là của đền vì tấp ghe hổng xin phép!” Má lui ghe bụng tức quá trời, biểu: “Quỷ ma gì đâu á trời! Cái chỗ có của riêng ai mà dành!”. Thiện nhớ ba biểu: “Tao thấy bả cực quá nên bắt bả lên bờ đó! Đó là chưa kể những lúc mưa bão bất ngờ, trên ghe lạnh kinh khủng mà biết núp chỗ nào. Nửa đêm vừa tát nước vô ghe vừa trụ ghe qua cơn mưa bão. Kiểu đó mà lật ghe một cái là chầu hà bá hổng chừng!”


Mà cũng bởi khó khăn đó mà má chỉ bán bông vạn thọ. Mấy lần người ta làm khó dễ, họ tràn qua ghe giẫm đạp làm mấy thứ bông kia nát bét, chỉ có vạn thọ vẫn nghển cổ tự hào vì chúng sống dai. Bán trễ xíu cũng hổng lỗ lã bao nhiêu. Người ta có vùi dập thì nó cũng dễ sống. Má biểu: “Chắc vì là thứ bông cúng nên nó rẻ! Mà hồi xưa hổng biết sao cũng mắc lắm à nghen! Còn giờ thấy người ta ít mua vạn thọ lắm!”


Má cũng kể cho ba nghe nhiều lúc thèm bờ, muốn lên nhà ở. Hồi nẫm căn nhà ông bà ngoại để lại vẫn còn, nhưng má kể cứ bước vô nhà là nhớ ông bà ngoại. Tấm hình ông bà ngoại để trên bàn thờ cười tươi mà nhỏ con khóc quá trời. Má sợ cái cảm giác mồ côi một mình. Mồ côi ở trên ghe hễ buồn thì chạy chỗ này chỗ kia, kệ nó! Lênh đênh mà đỡ nhớ. Còn ở trong nhà nhớ biết chạy đi đâu. Ba biểu lúc đó má than: “Đất cứng ngắc! Chắc chỉ có sông đủ mềm để chứa cái phận mồ côi của mình thôi!” Ba khóc ròng vì thương má.


5.

Má quầy vô nhà thấy hai bình bông thằng Thiện để ngay trước sân sát bàn thờ Thiên, còn nó đang cặm cụi gọt mấy cái gốc kiệu cho má chuẩn bị làm dưa ăn với bánh tét mấy ngày tết. Má để hai bình bông vào đúng vị trí hai góc cột như mọi năm, miệng hí hới nhắc thằng con:


-“Ê! Gọt cho sạch gốc nhen mậy! Mần kỹ làm dưa ăn cho nó ngon!”


 Thiện ngó đăm đăm thau kiệu, mặt ủ dột như thể mỏi mệt với mấy củ kiệu nhỏ xíu mà nó tỉ mẫn làm từ sáng tới trưa. Chợt tiếng điện thoại trong túi nó kêu vài tiếng, nó mở điện thoại đọc chăm chú với khuôn mặt sáng rỡ. Bỏ lại thau kiệu nó chạy lại gần má đang với tay lau lư hương trên bàn thờ.


-“Má ơi! Má ồ! Má…!”


Tiếng nó cố làm ra nhão nhoẹt, má biết nó muốn xin gì với giọng điệu đó. Má trả lời sẵn giọng:


-“Cái gì? Muốn đi phải hông?”


Thiện gãi đầu lúng túng. Nghĩ thương thằng con từ sáng tới giờ gọt kiệu liệt tay, má húng hắn:


-“Ừa! Đi đi! Nhớ chiều về ăn cơm đó! Má đợi!”


Trong vòng ba nốt nhạc thì thằng Thiện đã sẵn sàng lên xe chạy đi. Tầm năm giờ chiều nó về. Má đang dở tay dọn mâm cơm có mấy khứa cá lóc kho tiêu và nồi canh chua bông so đũa, món mà Thiện thích. Hai má con vừa ăn cơm chiều vừa nói chuyện với nhau. Những câu chuyện cuối năm vui buồn lẫn lộn.


-“Tết là thêm tuổi, lớn rồi nghen mậy! Lo mà học hành rồi học đại học, cưới vợ sanh con đặng má an tâm.”


Thiện hỏi má:


-“Mai mốt con mần có tiền con sửa lại cái nhà cho tươm tất rồi hễ còn dư tiền con đưa má đi du lịch hén!”


Má biểu:


-“Thôi! Tự lo thân cho con là má mừng! Má tự lo được! Mà…”


Má ậm ờ, thằng con hỏi thêm: “Mà gì má?”


-“Mai mốt bây lập gia đình rồi… chắc… má xuống ghe đi bán bông nữa quá!”


Thằng con giật mình trước câu nói của má, gằn hỏi:


-“Gì vậy má! Già rồi hổng nghỉ ngơi còn buôn bán gì nữa?”


Má nuốt miếng cơm rồi nhìn thằng con biểu:


-“Thì bây có vợ có con rồi, má ở một mình. Má xuống ghe đi đây đó cho… đỡ nhớ sông, đỡ… nhớ bây.”


Thằng con nín thinh hông biết nói làm sao. Má vẫn tỉnh bơ gắp cá vô chén nó, rồi biểu: “Thôi! Ăn đi con!”


                                                                                        Little Stream

27 tháng 11, 2022

Suy tư: CÁNH CỬA VÀ THỜI GIAN

 (Chút tản mạn vào những ngày cuối năm)


Tôi đã đứng đây như một chứng nhân về hiện tượng của những sự vật trong dòng thời gian, dù tôi chẳng hiểu sự tình bên trong những hiện tượng ấy. Thời gian trôi qua, mọi sự vật và con người sống quanh tôi cũng biến chuyển. Lạ lắm! Tạo Hóa đã ban cho tôi có khả năng nhìn thấy hiện tượng hai chiều nơi những sự vật khác nhau cùng một lúc.


Tôi có thể thấy những chú chuột nhắt phập phồng chờ mẹ về, đang khi chú mèo hung dữ đang đứng bên kia cánh cửa cố dùng những móng nhọn sắc để giật cánh cửa. Tôi cũng thấy những chú kiến bên này cửa đang khi ì ạch cõng những hạt cơm trên lưng, vẫn ngoái lại chờ đồng đội của mình, đang cố vượt qua khe cửa hẹp, để nối đuôi đi theo hàng.


Tôi cũng muốn kể cho bạn nghe những hiện tượng mà tôi có dịp chứng kiến nơi con người và những điều ấy khiến tôi suy nghĩ mãi cũng chẳng hiểu được.




Tiếng xe thắng dứt khoát đậu lại trước cửa nhà. Những thành viên trong nhà nhốn nháo báo nhau: “Về rồi! Về rồi!” Rồi mọi người đổ xô ra mở cửa với vẻ mặt háo hức. Bên kia cánh cửa là cặp vợ chồng trẻ đang bế đứa con vừa chào đời, cả hai nhìn nhau mỉm cười hạnh phúc. Cửa mở ra, hiện tượng khóc cười lẫn lộn.


Nắm tay vặn cửa mở ra vội vàng, tôi thấy khuôn mặt của người phụ nữ trung niên đầy lo lắng. Bên kia là người đàn ông đang dắt đứa nhỏ chừng hai hay ba tuổi, đứa bé đang khóc mếu máo với vết trầy xước trên tay và mặt.


Cảm giác bị giật rất mạnh, tôi thấy người đàn ông đang cố níu tay người phụ nữ lại, nhưng người phụ nữ cố giật tay ra mà với tới nấm cửa vặn thật mạnh và nhanh. Đứa bé líu ríu chạy theo, nước mắt đầm đìa, miệng năn nỉ thảm thiết: “Đừng bỏ con mà! Đừng!”, nhưng người phụ nữ như có sự thôi thúc mãnh liệt nào đó, dù người đàn ông cố giữ cũng không được. Cửa mở toang và để như vậy. Tôi một mặt nhìn vách tường xám lạnh, một mặt nhìn người đàn ông đang ôm đứa bé vào lòng, sụt sùi.


Cũng một mặt áp tường, cửa để mở toang hoác. Người ra vào liên tục. Đèn sáng choang. Mùi hương xông lên nồng nặc. Tiếng khóc thảm thiết. Ông cụ cao niên trong nhà đã được đặt trong quan tài, đứa con trai và đứa cháu khóc ầm ĩ. Những người hàng xóm vừa bịn rịn vừa cầu kinh cho ông. Tầm ba ngày, họ đưa quan tài của ông đi đâu đó tôi chẳng biết.


Một người phụ nữ đứng trước cửa bấm chuông. Một cậu thanh niên đẹp trai ra mở cửa với thái độ vội vàng vì bộ phim còn dở trên sóng truyền hình. “Cho hỏi! Đây có phải nhà ông…?”. “Dạ! Đúng rồi!” cậu thanh niên lịch sự đáp lại. Rồi người phụ nữ được mời vào nhà, người đàn ông từ dưới bếp bước lên một tay còn chùi vào tạp dề đang đeo trước mình, tay kia cầm ly nước cho khách. “Choảng!” Tiếng ly bể.


“Hú! Hú! Hú!” Tiếng còi cứu thương kéo dài. Cậu thanh niên chạy ra cửa gấp gáp chỉ ngón tay vào bên trong, nhân viên cứu thương chạy vào với tấm băng ca. Bên trong nhà, người đàn ông nằm trên nền gạch bất tỉnh. Người phụ nữ khóc lóc thảm thiết. Băng ca đặt người đàn ông được cáng ra xe, người phụ nữ và cậu thanh niên chạy theo lên xe. Cửa mở toang hoác, một bên đối diện tường xám, một bên căn nhà trống hoác, đồ đạc lộn xộn.


Khi tôi kể lại những hiện tượng này, là lúc ngọn lửa đã sắp ngoạm hết người tôi. Chỉ còn nấm đấm cửa bằng kim loại nên vẫn trơ trơ dưới sức nóng của lò đốt. Tôi đã trở nên cũ kỹ và mục nát sau mấy mươi năm phục vụ. Tôi chợt nghĩ về cuộc đời của mình lẫn cuộc đời của những sự vật, những con người mà tôi được chứng kiến. Thực sự khó hiểu về những điều ấy. Nơi những trạng thái trái ngược của mèo và chuột; nơi những sự mong chờ đồng đội của những chú kiến. Còn con người thì lại càng khó hiểu hơn hết vì những biến chuyển vui-buồn, hợp-tan, giận-hòa của họ. Xoành xoạch!


Nghĩa là sao nhỉ? Tôi chỉ thấy vậy thôi! Mà… hình như suốt mấy mươi năm chứng kiến, tôi thấy họ khóc nhiều hơn cười thì phải!


                                                                                    Little Stream

19 tháng 11, 2022

Tản mạn: BẢNG ĐEN PHẤN TRẮNG

  Bảng đen và phấn trắng là hai hình ảnh mà tôi được gợi nhắc cách đặc biệt trong ngày lễ nhớ ơn quý Thầy Cô.


Có lẽ, các em học sinh ngày nay khi được sinh ra trong đầy đủ tiện nghi thì không còn cơ hội biết về chiếc bảng lóa mắt và viên phấn đầy bụi của ngày xưa. Ngày nay, các em sẽ quen hơn với chiếc bảng hiện đại, những chiếc bảng chuyên dụng cho bút lông nhẹ nhàng và thanh thoát hơn, hay những chiếc bảng là chính màn hình chiếu máy tính lên khung chuyên dụng. Tất cả những hiện đại này đã đóng góp tuyệt vời cho bến bờ tri thức trong thời đại mới. Và… có lẽ vì lý do ấy mà những hình ảnh ví von về tấm bảng đen và viên phấn trắng dần trôi vào quá khứ, hay chỉ xuất hiện đơn thuần như những mỹ từ đẹp và hình ảnh gợi lên cảm xúc. Tuy vậy, điều tôi muốn nói trong bài viết này không chỉ là những mỹ từ đẹp, nhưng tôi muốn khẳng định rằng, trong quá khứ đã từng có những chiếc bảng đen, viên phấn trắng và cả hy sinh của quý Thầy Cô thuở ấy.


Tôi hiểu rằng những lời ca: “khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi…” là có thật. Mà cái thật ấy không đẹp như bài hát với tiết điệu nhịp nhàng, thay vào đó là bụi bay tá lả. Ngồi cạnh khung cửa sổ có nắng dọi xuyên những khung sắt, bụi phấn bay hết cả gian lớp. Mỗi lần thầy cô viết thì phải lấy cánh tay còn lại chắn mũi và miệng lại. Lũ trò ngồi xa xa ngắm bụi bay tưởng đang ở trên thiên đàng có khói bay la đà.




Cứ thế, chúng tôi được nuôi lớn về trí khôn từng ngày. Càng khôn ra thì cũng hiểu hơn rằng thứ bụi phấn ấy được làm từ một loại bột sét có chứa canxi cacbonat. Hậu quả mà nó gây ra là tích tụ lâu ngày sẽ gây ra các vấn đề như: Viêm mũi dị ứng, viêm xoang, viêm phế quản, suyễn…  và khi bị viêm nhiễm lâu, sức đề kháng của cơ quan hô hấp sẽ bị giảm, điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn lao tấn công gây nguy cơ mắc lao phổi sẽ cao hơn. Càng sợ điều này thì lũ trò càng hiểu chẳng có thầy cô nào thuở đó dạy tụi mình dưới hai chục năm. Có thầy cô lớn tuổi đã dạy từ thế hệ cha mẹ, đến thế hệ con cái và thậm chí là thế hệ cháu chắt, họ vẫn trung thành trong nghề cho tới khi không còn khả năng dạy học được nữa.


Đó là sự thật để mỗi độ nhìn bước thành công trong cuộc đời mình, hay mỗi độ hát lại câu hát “khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi…” thì lũ trò năm xưa, nay đầu đã hai thứ tóc, lại muốn khóc mếu khóc máo. Tự ngẫm sao thầy cô thương tụi mình như vậy, thương đến độ hy sinh cả sức khỏe của chính họ để các trò có tương lai sáng rạng. Mớ tiền lương ít ỏi của giáo viên dù có lãnh trong hai chục năm trời chắc cũng không đủ để chữa những căn bệnh về già, mà một phần bệnh tật tôi đoán là do bụi phấn gây ra. Có lẽ ngày hôm nay, khi các em học trò của thời đại mới hát câu hát “…bụi phấn rơi rơi…” sẽ có khả năng hiểu sâu xa và nhiều cảm xúc hơn chúng tôi, còn chúng tôi mang ơn thầy cô đơn giản bởi cái sự đánh đổi “liều mình” cách rõ ràng như thế.


Lũ trò chúng tôi chỉ ngẫm ra chuyện bảng đen phấn trắng khi đã khôn lớn và chỉ hiểu vấn đề khi lòng biết ơn có lúc đã muộn màng. Ngẫm lại mà xót xa bởi mỗi lần chuyển lên lớp mới thì thầy cô lại chúc điều này điều kia và khóc. Thầy thì đỏ hoe mắt, cô thì thút thít nói tiếng được tiếng mất. Lũ trò bên dưới cầm bằng khen với mấy cuốn sổ mới được lãnh thưởng cười tí toét, có đứa nói nhỏ: “Trời! Sao ông thầy bà cô nào cũng biết đóng cải lương. Muốn chửi là chửi. Muốn cho “hột dzịt” (không điểm) là cho. Muốn đánh là đánh. Muốn mời phụ huynh là mời…”. Một tràng “muốn” của cậu trò nhỏ, thêm có đứa chen vô: “Muốn khóc là khóc hà! Thầy cô đóng cải lương giỏi thiệt luôn!”


Nghĩ lại suy nghĩ chưa thấu đáo thuở ấy, giờ ray rứt vô kể… Mà muốn xin lỗi hay cám ơn thì các vị… ra thiên cổ hết rồi. Nhưng nhớ lại câu nói mà thầy cô nào cũng nói: “Tụi con ráng học đàng hoàng, mai mốt thành công trong cuộc sống mà giúp ích cho đất nước, xã hội, gia đình và bản thân tụi con”, mấy đứa già đầu nhấp miếng cà phê vỉa hè rồi tự nhủ với nhau: “Chắc thầy cô hổng chấp nhứt mấy đứa tụi mình đâu. Thấy tụi mình như ngày hôm nay chắc thầy cô vui rồi!”


                                                                                    Little Stream

18 tháng 11, 2022

Tản mạn: THẦY TÔI

 Điệp khúc mở đầu câu chuyện bằng “Thầy tôi…” được vị giáo sư và các học viên nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong suốt khóa học. Có lẽ các học viên đã thích cụm từ dễ thương được cất lên từ môi vị giáo sư lớn tuổi, dù đã cao niên nhưng vẫn khỏe mạnh và hài hước. Trong lớp chúng tôi vẫn gọi thầy bằng cụ, vì tiếng gọi ấy còn chất chứa cả sự kính trọng với bậc lớn tuổi. Cụ nói câu ấy dễ thương quá chừng, mà các học viên chúng tôi học theo câu ấy cũng dễ thương không kém. Tự nhiên nói câu gì có nội dung như: “Thầy tôi nói thế này…”, “Thầy tôi là… từng dạy…”, “Thầy tôi…” chợt lũ trò vừa cười tươi vừa gật gù tâm đắc, y như bộ dạng của cụ khi nhắc tới những vị thầy của mình. Đương nhiên, tôi xin loại trừ những kiểu cười châm biếm hay phê phán của một số người ra khỏi những suy tư nghiêm túc này.


Ngẫm về tiếng nói “thầy tôi” của cụ, tôi nhận ra ba điều. Thứ nhất, cụ công nhận công ơn những bậc tiền bối có công dạy dỗ và huấn luyện cho cụ có được hôm nay. Sự công nhận cũng là thái độ ghi ơn khi cụ nói: “Sách vở của thầy tôi vẫn còn giữ ở nhà tôi.” Cậu học trò năm xưa vẫn nhớ về công ơn cao lớn ấy dù “thầy tôi” đã ra thiên cổ hết rồi. Vì sao lại cất công giữ lại mớ sách vàng ố và chữ in nhòe nhoẹt với tuổi đời hơn mấy chục năm, xem ra kiến thức ngày nay đã tân tiến hơn nhiều? Có lẽ nơi mỗi tờ giấy và chữ in thô sơ là những kỷ niệm rất đẹp, để mỗi khi thấy sách vở ấy là nhớ đến “thầy tôi”, để mỗi lần nhắc tới “thầy tôi” thì hiểu rằng kiến thức của các vị vẫn hằn sâu không chỉ sách vở còn được lưu giữ, nhưng còn là chính con người và kiến thức của cụ ngày hôm nay.




Thứ đến, cụ muốn nói lên cái tâm của những bậc hiền nhân đi trước rằng các vị sẵn sàng mở ngỏ để hậu thế phê bình. Phê bình ở đây được hiểu là nhận ra mặt tích cực lẫn tiêu cực, mặt đầy mặt khuyết, đương thời và lỗi thời…. để từ đó hậu thế bổ túc vào mớ kiến thức mà mỗi thế hệ cần dùng đến. Lối phê bình của cụ vừa sâu sắc nhưng cũng không kém phần vui tươi. Biết rằng cách dẫn tư tưởng sẽ khó hiểu, cụ chọn những mẫu truyện để dẫn ngầm tư tưởng, để sau tràng cười khoái chí là bài học sâu trong lòng mỗi học viên.


Như thế, cụ không toàn tập “tâng bốc” các vị thầy của mình, mà thực tế là khen ngợi cũng có và phê bình cũng có. Với lối nói của một tri thức gốc Bắc cựu trào lai chút hóm hỉnh miền Nam, cụ dẫn vào cách nhẹ nhàng: “Thầy tôi nói thế này… tôi đồng ý, nhưng cực chẳng đã tôi mới nói thế này…” đó là câu dẫn vào phê bình của cụ. Nhẹ nhàng nhưng đầy đủ trên nhiều phương diện, vận dụng tư tưởng từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây có đủ. Như thế, cụ dần cung cấp một bình diện kiến thức tạm thời cho học viên chúng tôi tự nghiên cứu sâu xa.


Thứ ba, nghĩ xa hơn thì chính vì cái tâm của các hiền nhân xưa dám để người khác “đạp lên” mà đứng cao hơn. Họ khiêm tốn bởi không dám khẳng định điều họ biết là Chân Lý trọn vẹn, là tất cả của vũ trụ nhân sinh. Họ ý thức một mình họ không lấp đầy được khát vọng tri thức của nhân loại trong mọi thời đại, thành thử họ biến điều họ đóng góp thành mớ tài sản chung cho mọi người thay vì dè sẻn, ki bo cho riêng mình.


Kết thúc khóa học cụ nhắn nhủ với lớp: “Xem như chưa học gì cả. Xem như tôi chưa nói gì với các bạn cả!”, “Điều tôi nói không là tất cả và các bạn có quyền phê bình những điều ấy miễn sao nó mưu ích cho kiến thức của các bạn.” Câu kết quá ư là… khó kết luận, nhưng để lại trong đầu và trong tim học trò nhiều điều để suy nghĩ.


Chợt thấy các bạn học viên cười hạnh phúc khi nhắc về “thầy tôi”, cũng có bạn nghiêm túc trong tranh luận cũng khởi đầu bằng “thầy tôi nói rằng…”, tôi cũng khao khát mỗi nụ cười lẫn sự nghiêm túc ấy của các bạn tôi cũng có đủ mọi yếu tố hài hước lẫn khiêm tốn để người khác phê bình tư tưởng của mình như cụ. Cũng tự nghĩ rằng ai yêu cầu kể ra một vài mẫu thước cho kiến thức đến lúc này, chắc các học viên sẽ bảo rằng: “Giống thầy tôi!”, mà chắc chắn cụ sẽ chối phăng cái tư tưởng kiêu ngạo ấy, mà dẫn chúng tôi đến với một Thầy khác, đó là vị Thầy, vị mà cụ nhắc đi nhắc lại rất nhiều trong bài giảng, đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” (x. Ga 4,6a)


Little Stream

01 tháng 11, 2022

Suy tư: QUAN TÀI

 Chiếc quan tài chỉ là vật vô tri vô giác, nhưng chính nó lại gợi lên bao nhiêu điều để con người phải suy nghĩ. Chính những mảnh ván với kích thước khác nhau làm dấy lên những cảm giác thân thương, đáng sợ và nhất là nhắc nhở kẻ ở lại về lối sống của mình.


Thân thương bởi chiếc quan tài giúp khuất lấp những thân xác không còn ích lợi và năng động trong cuộc sống thế trần này. Cần được khuất lấp bởi một khi trút hơi thở thì thân xác chóng vội tàn phai và biến sắc chỉ trong vài giờ ngắn ngủi. Tôi vẫn nhớ cảm giác giật mình và một chút rợn rùng khi thấy lũ kiến bò lên cánh tay và khuôn mặt của người thân mình đang khi chờ tới lúc tẫn liệm. Sao khác quá giữa một con người từng hồng hào, năng động và biết tự bảo vệ mình trước mọi tấn công. Còn khi đã chết thì bầy kiến nhỏ nhởn nhơ mà cái xác chẳng chút động đậy. Vài giờ thì thân thể lạnh lẽo, da vẻ tái nhợt và dễ khiến người ta hãi sợ. Chiếc quan tài khuất lấp đi những khoảng dễ sợ ấy để chỉ chừa ra cái dễ thương, là khuôn mặt đã được trang điểm cho hồng hào, là đôi tay được mang chiếc găng trắng thật sang trọng, là đôi mắt nhắm lại nhưng viền mắt vẫn được vẽ cho sinh động.





Đáng sợ bởi chiếc quan tài là vạch ngăn lớn lao giữa kẻ sống lẫn người chết. Vạch ngăn ấy hiển hiện chỉ qua tấm ván mỏng, nhưng cũng đồng nghĩa rằng người nằm trong những tấm ván chẳng bao giờ bước ra với những người bên ngoài nữa. Mặc cho người thân thương tiếc, kêu khóc, gào thét nhưng sự đáp lại chỉ là im lặng. Con người với tâm lý bình thường hay sợ vạch ngăn này vì nơi đó đầy dẫy những tiếc nuối khi còn quá nhiều hoài bão của kẻ nằm trong quan tài chưa làm được khi còn sống, còn quá nhiều những lỗi lầm mà kẻ còn sống đã gây ra cho kẻ nằm trong kia mà chẳng còn cơ hội nói lời xin lỗi, còn biết bao nhiêu tâm tư và tình cảm đáng đã phải được thổ lộ cho kỳ hết nhưng nay đã chỉ còn ghi lạnh lùng trên những dòng di chúc, di thư, di nguyện.


Chính những nỗi thân thương và đáng sợ ấy mà người ở lại kiếp sống lữ hành này được nhắc nhớ bao nhiêu điều. Ở đất nước Hàn Quốc có một trải nghiệm khá thú vị được gọi là ‘dịch vụ ‘chết thử’’. Đến với dịch vụ này, ‘người tham gia dịch vụ này sẽ được hướng dẫn và xem một đoạn video trước khi được dẫn vào một căn phòng tối, ngồi cạnh quan tài và bắt đầu viết di chúc của mình. Sau đó, họ mặc đồ liệm và được đặt vào trong quan tài. Họ sẽ nằm trong chiếc quan tài tối đen khoảng 10 phút, nghe có vẻ ngắn những đối với những người trải nghiệm dịch vụ này, khoảng thời gian đó như bất tận với họ.’[1] Có lẽ không cần phải đặt vấn đề về chuyện ‘chết thử’ ấy có mang lại cảm giác thật hay ảo, nhưng điều cốt lõi mà dịch vụ ấy mang tới là giúp cho người còn sống biết trân quý cuộc sống hiện tại như một món quà quý báu. Cụ thể với người Ki-tô Hữu, món quà sự sống ấy không tự họ tạo ra được, mà chính Thiên Chúa ban cho.


Nhớ đến những người thân yêu đã qua đời và đang chờ đợi ngày hưởng ánh quang bất tận của Thiên Chúa, tôi cũng được gợi nhắc chính bổn phận và lối sống hiện tại của chính mình, tựa như câu nói: “Khi bạn sinh ra đời, bạn khóc còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn, bạn cười”.

                                                              

✍️Little Stream

📷Moon


[1] https://laodong.vn/the-gioi/han-quoc-trai-nghiem-dich-vu-chet-thu-de-tan-huong-cuoc-song-764374.ldo