31 tháng 5, 2022

Chuyển ngữ: CON NGƯỜI CHÚNG TA CẦN HẠNH PHÚC VÀ VIÊN MÃN

 Một độc giả đã viết và hỏi rằng: Linh đạo thánh I-nha-xi-ô hướng đến nhu cầu hạnh phúc và viên mãn nơi con người toàn thể như thế nào?




Trả lời


Bạn thân mến của thánh I-nha-xi-ô,

Cám ơn bạn vì câu hỏi này! Trong khi tôi biết mình không đưa ra tất cả câu trả lời cho bạn, tôi cũng không thể đưa ra câu trả lời trọn vẹn như mong muốn, thì đây tôi muốn đưa ra một vài ý tưởng cho thấy tôi tin tưởng vào linh đạo I-nha-xi-ô giúp chúng ta hướng tới nhu cầu hạnh phúc và viên mãn của con người như thế nào.

Thiên Chúa yêu chúng ta trên hết. Chúng ta không làm gì để tìm kiếm cho kỳ được tình yêu Thiên Chúa cả. Chính Ngài đã trao hiến tự nguyện cho chúng ta.

Thiên Chúa làm tăng lên trong chúng ta khao khát Thiên Chúa. Thông thường, điều này tự nó biểu hiện trong chính sự không ngừng nghỉ mà chúng ta cảm thấy trong lòng hay trong một cảm giác trống vắng điều gì đó trong cuộc sống chúng ta.

Chúng ta được dựng nên cho Thiên Chúa. Hay như một người bạn thân của tôi nói rằng. “Chúng ta giống như những chiếc bánh rán. Chúng ta có một lỗ hổng thật to trong con người mình mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy.” Cốt lõi căn tính và sự viên mãn cao nhất được tìm thấy trong tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và việc chúng ta chấp nhận tình yêu ấy.

Chúng ta chọn lựa có hành động hay không dựa trên khao khát Thiên Chúa. Trong cuộc sống chúng ta có nhận ra sự nóng lòng và không ngưng nghỉ, hay chúng ta nỗ lực để dìm chết khao khát ấy, đè nó xuống, hay chúng ta lấp đầy nó với những thứ hay những con người nào khác?

Thiên Chúa mời gọi và chúng ta đáp trả. Lời mời gọi và sự đáp trả này là hành động liên tục của sự sáng tạo trong cuộc sống chúng ta.

Sự đáp trả của chúng ta nhằm tìm kiếm để lấp đầy “cái lỗ hổng thật to trong chúng ta” không là việc chỉ làm một lần là đủ. Tuy nhiên, một lần nữa chúng ta bắt đầu con đường của riêng mình để nối kết với Thiên Chúa, chúng ta thường tìm kiếm một niềm bình an sâu xa trong sự đáp trả không ngừng nghỉ vốn giúp chúng ta ở lại trong con đường của riêng mình mà lớn lên trong Thiên Chúa.

Thiên Chúa, thông ban tình yêu cho chúng ta, tiếp tục làm tăng lên những khao khát trong lòng chúng ta để kêu gọi chúng ta bước vào mối tương quan sâu hơn với Thiên Chúa. Những khao khát này làm thức tỉnh chúng ta để hội nhất những đóng góp của chính mình vào công trình của Thiên Chúa trong thế giới ngày nay. Như cha Joseph Tetlow, S.J trình bày trong bài viết Nền tảng: Tạo vật trong Nguyên lý và Nền Tảng rằng: “Thiên Chúa làm tăng lên trong chúng ta những khao khát để thực hiện những điều tốt lành tiếp theo sau.”

Sự đáp trả và chọn lựa không ngừng nghỉ của chúng ta, như David Fleming, S.J, nói “điều tốt đẹp hơn dẫn tới cuộc sống của Thiên Chúa cách sâu xa hơn trong con người tôi.” (Tác phẩm Draw Me into Your Friendship – tạm dịch Họa con trong tình bạn với Ngài). Với tất cả những chọn lựa đặt trước chúng ta, chọn lựa nào ưu tiên nhất dẫn chúng ta vào mối tương quan với Thiên Chúa cách sâu xa hơn?

Bằng sự tiếp tục trên hành trình lắng nghe lời gọi của Thiên Chúa và đáp trả lời mời gọi ấy, chúng ta nắm bắt bước đi rất khác biệt trong việc đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, là điều mang lại cho chúng ta một cảm thức viên mãn, có mục tiêu và bình an.

Tôi hy vọng những cung cấp trên hỗ trợ cho những thắc mắc của bạn. Tôi biết rằng tôi đã không liên hệ tới muôn vàn những điều có thể nắm bắt được, vốn là cách thức chúng ta lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa. Có lẽ đó sẽ là một bài viết khác vào một ngày khác.

Tôi mong được nghe điều mà mục dotMagis, trang mạng IgnatianSpirituality.com, có thể thêm vào những đáp trả câu hỏi của bạn để chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau. Tôi và bạn vẫn cùng nhau trên hành trình này.


Chào bình an,

Becky.


Nguồn: https://www.ignatianspirituality.com/our-human-need-for-happiness-and-fulfillment-a-letter/

Tác giả: Becky Eldredge

Chuyển ngữ: Little Stream

26 tháng 5, 2022

Truyện ngắn: VỀ KINH ĐỨC BÀ

 Ngoại vẫn nhớ là nhớ như in về tấm gương đạo đức của Bà Cố Ngoại. Ngoại biểu: “Bà Cố Ngoại bây giỏi và siêng lắm, đạo đức lắm! Thuộc hết mấy cái kinh trong cuốn Mục Lục[2]. Hồi đó ngoại còn nhỏ, mà đêm nào bà cũng bắt ngoại ngồi dậy đọc kinh, nên nhiều lúc ngoại lật ngang ngủ hồi nào hổng hay.” Hỏi “vậy chớ ngoại đọc kinh với Bà Cố Ngoại có lâu dữ hông?”. Ngoại biểu: Hổng biết bao lâu mà nửa đêm thức dậy thấy bả vẫn ngồi đọc kinh. Mà bả giọng đọc sang sảng chớ hổng có mệt mỏi chi ráo!”. Ngoại còn kể ngày nào Bà Cố Ngoại cũng đi lễ sáng chiều, lúc nào cũng mặc áo dài, tóc tai tươm tất. Đi lễ thì dắt con đi lễ với mình vì “ở nhà hổng có ai coi chừng, sợ té dưới sông”. Mấy đứa con nhỏ xíu không hiểu gì chỉ biết bám cái tà áo dài của mẹ, vì buổi sáng dậy sớm nên vừa tới nhà thờ dựa vách tường ngủ, xong rồi mẹ ra đánh thức kêu đi về nhà: “Dậy mấy đứa! Lễ xong rồi!”. Ngoại kể cũng có hôm ngủ mê, kêu hoài hổng dậy, nên Bà Cố Ngoại vác ngoại trên vai đi về. Chắc vì lòng yêu mến Chúa và đạo đức tuyệt vời đến vậy, nên Bà Cố Ngoại muốn ngoại đi tu, thành thử mới có cái ký ức liền sau.


Ngoại nhớ hoài là cái hồi Bà Cố Ngoại chở ngoại trên chiếc xuồng ba lá. Ngoại lúc đó mới là cô gái hơn mười mấy tuổi, vẫn còn khù khờ và ngoan ngoãn nên không hề thắc mắc mẹ chở mình đi đâu. Ngoại biểu: “Bà cố chèo xuồng te te đưa vô nhà Dòng, rồi dặn ở đó với mấy dì phước, ngày mai mẹ vô rước về”. Rồi cô gái nhỏ thút thít vì lần đầu mẹ nói lời chia tay kiểu như… hổng bao giờ gặp lại, nhưng mẹ lau nước mắt con gái rồi nói vui: “Trời! Lớn rồi mà khóc gì như con nít.” Thế là cô con gái nhìn theo chiếc xuồng ba lá bơi đi xa xa, xa dần, xa dần và đến lúc chỉ là một chấm đen và mất hút giữa hai hàng dừa nước. Ngoại còn chậc lưỡi tiếc: “Ngẫm hồi đó dở quá! Cửa nhà Dòng tới nhà mình có bao xa, vậy mà hỏng biết đường đi về!” Ngoại ở đó với các Dì phước. Ở luôn với các Dì từ lúc không biết gì là tu hành cho tới ngày đội lúp. Nhưng biến cố bạo bệnh ập đến với ngoại thì Dì bề trên cho phép rời Dòng theo ý muốn của ngoại.




Ký ức thứ ba mà ngoại còn nhắc nhớ hoài là lúc Ông Cố Ngoại và Bà Cố Ngoại kêu giật một giật hai lên nhà trên, lúc đó mặt mày ngoại lấm lem vì khói bếp, Ông Cố Ngoại biểu: “Ba mẹ gả con cho thằng này! Con ưng hông?” Ngoại không dám nhìn thẳng mặt người đàn ông đối diện với mình vì mắc cỡ, chỉ len lén nhìn rồi nhìn Ông Bà Cố Ngoại mà gật đầu khe khẽ trả lời: “Dạ!”. Rời Kinh Đức Bà, ngoại theo chồng về miệt Rạch Nhà – Cà Mau ngày nay. Làm dâu ở xứ người mấy chục năm chưa có dịp về thăm quê ba mẹ. Rồi ba mẹ cũng rời cõi thế, các chị và em cũng rời theo. Ngoại nhắc hoài tên bốn chị em: “Sơn – Đầm – Xã – Tắc”. Ngoại tên là Đầm, còn những chị em còn lại cũng theo ba mẹ hết rồi.



Xe bon bon lăn bánh. Hai bên đường là những hàng chuối xanh tơ suôn đuột quảy những quầy to đùng. Con đường tráng nhựa nên mọi lưu thông bằng xe khá thuận tiện và dễ dàng cho ngoại – cụ bà gần chín mươi tuổi – ngồi xe và có thể về thăm quê mẹ sau hơn nửa thế kỷ xa cách.


Mới ngày nào đi lễ mỗi ngày với Bà Cố Ngoại còn là một đứa bé gái. Ngày nào mẹ đưa vô gửi nhà Dòng cho con đi tu là lúc còn là cô gái mười mấy tuổi khờ căm. Ngày nào rời ba mẹ về miệt Cà Mau làm dâu còn là cô gái trẻ khóc lóc thương ba mẹ. Nay trở về tất cả những ký ức ấy đã trôi qua lâu… lâu lắm rồi. Những con người trong ký ức ấy cũng không còn. Chỉ còn mỗi bà cụ gần chín mươi tuổi với mái tóc bạc trắng, nhớ nhớ quên quên đứng giữa nắng. Con cháu xung quanh không hề can dự, mà đúng hơn là cũng không thể can dự vào ký ức của ngoại. Phút trơ trọi trước mộ mẹ, chị là phút tương giao chỉ ngoại và những con người nằm dưới lòng đất kia mới hiểu.


Hẳn với một người còn minh mẫn thì đây là lúc chính họ xúc động khôn xiết, nhưng với một cụ bà nhớ trước quên sau thì lại khiến những người xung quanh phải cảm động, nhất là con cháu khi chứng kiến cảnh tượng sum vầy trong gợi nhắc: “Ai đây? Người này với tui như thế nào? Đây là Chị tui hả?”… lại khiến người thế hệ sau phải bật khóc. Hỏi thì hỏi vậy, nhưng trong lòng ngoại – một đứa con- đứng trước mộ của mẹ, của chị và những người thân thích thì làm sao không nhớ được. Trí nhớ theo lý trí không còn, nhưng tâm khảm và tương giao đã nối kết họ – kẻ ở người đi – lại với nhau rồi. Mà hình như khi con người ta vượt khỏi cái ngưỡng cảm xúc vồ vập, thì họ bình tĩnh lắm. Bình tĩnh mà lai láng bao nhiêu tâm tình.


Một người cháu ruột trên đường dắt Ngoại ra đất thánh nơi có Bà Cố Ngoại và chị Hai còn mộ phần ở đó hỏi:


“Dì Ba! Dì Ba còn nhớ ai đây hông?”

“Ai vậy?” Ngoại hỏi tỉnh bơ.

“Dì Ba đọc cái tên lên coi nhớ hông?”

“Nguyễn Thị Sơn – Maria Nguyễn Thị Sơn.”

Đọc xong cái tên ngoại không động tĩnh gì như thể không ấn tượng gì, người cháu nhắc:


“Chế Hai của Dì Ba đó! Dì Hai đó Dì Ba!”

“Vậy sao?” Ngoại nói gì đó như muốn nhớ điều đã quên…


Đi thêm vài bước về phía lối trước của đất thánh, mọi người xôn xao: “Mẹ của Dì Ba nè! Dì Ba thấy chưa?”, ngoại vẫn không chút nhớ lại. Phía trước là mộ phần của “I-nê Nguyễn Thị Bảy” – là người đã được ngoại nhắc lại rất nhiều trong bao lần kể chuyện cho con cháu nghe. Ngoại đứng trước mộ phần của Bà Cố Ngoại cùng mọi người nguyện kinh, rồi vài đứa cháu phải dắt ngoại đến gần để cúi lạy và cặm nhang vào chiếc lư hương nhỏ trước mộ. Khuôn mặt Ngoại không cười, không nói cũng không chút gì là nét chủ động, xa xa nhìn ngoại như muốn khóc, nhưng có lẽ cái tên “Nguyễn Thị Bảy” lạ lẫm quá nên không khóc chăng! Cái tên của Bà Cố Ngoại không còn trong ký ức, mà chỉ còn ký ức “Bà Cố Ngoại của tụi con, của tụi bay…” mỗi lần kể chuyện đi lễ, đi tu và đi theo chồng thôi!


Ngoại còn có cơ hội đi thăm những người bà con thân thuộc mấy chục năm rồi chưa có dịp gặp lại. Cuộc chuyện trò của ngoại với mọi người chỉ là: “Vậy ha? Con ai đây? Khỏe hông? Vậy sao!” và “dữ vậy sao!” Chào ra về thì ngoại cũng nói lại những câu: “Ở lại mạnh giỏi nghen! Tui dzìa à!” Đó chỉ là những câu đáp hờ vì, so với cái tuổi gần chín mươi của mình, thực ngoại không thể biết mình đang nói chuyện với ai nữa.


Xe bon bon lăn bánh chở ngoại về lại Cà Mau, chuyến xe đầy ắp tiếng cười nói, riêng ngoại vẫn đọc kinh. Ánh mắt ngoại vẫn bình thản chứ không nặng nề xúc động. Cứ bình tĩnh vậy thôi. Tự hỏi chuyến đi ấy mang lại điều gì cho ngoại? Hẳn đã không còn tác động gì trên lý trí nhớ nhớ quên quên của ngoại cho bằng một cảm thức thiêng liêng nào đó giữa ngoại và những con người mà ngoại đã và đang yêu mến, cho con cháu thấy một cuộc hồi hương mang ý nghĩa sâu đậm. Giờ thì con cháu hiểu vì sao ngoại quên nhiều điều, nhiều thứ, kể cả quên những vui buồn riêng mình, nhưng… không bao giờ ngoại quên những ký ức về Bà Cố Ngoại, về các chị em “Sơn – Đầm – Xã – Tắc”, cũng không bao giờ quên cái hồi bám đuôi áo dài mẹ để đi lễ, ngồi xuồng mẹ chở vô nhà Dòng, ngày rời ba mẹ theo chồng. Nhớ hoài, nhớ không quên là bởi nơi đó chất chứa tương giao gia đình, một thứ tình cảm đặc biệt mà chỉ người trong cuộc mới hiểu. Xe lăn bánh hồi dài, ngoại ngừng đọc kinh, nhìn ra phía hai bên đường, những hàng chuối xanh mơn mởn quảy những quầy to và chạy thật nhanh ngược chiều rồi biến mất… Hình như ánh mắt ngoại muốn nói lên điều gì đó.


Ngoại ơi! Có phải ngoại muốn nhớ con đường đất quanh co ngày nào ngoại cũng đi lễ với mẹ? Có phải ngoại muốn nhớ hai hàng dừa nước xanh um ngã đầu che mát mỗi khi ngồi yên trên chiếc xuồng ba lá để ba mẹ chở đi? Có phải ngoại nhớ cái ngày Ông Bà Cố Ngoại khóc ròng, ngoại cũng khóc ròng, trời đất cũng khóc ròng cho cuộc ly biệt mấy chục năm trời và không ngày gặp lại không?…


Mà… chắc con nghĩ vậy thôi! Chứ… Ngoại nhớ rồi! Nhớ hết rồi! Sao quên được! Ngoại hén!


                                                                                        Little Stream


[1] Kinh Đức Bà là một địa danh thuộc vùng Phương Thạnh, Phương Phú, Phụng Hiệp, TP. Cần Thơ. Nói đúng hơn, Kinh Đức Bà được nhắc tới ở đây như một xứ đạo Công Giáo.

Có thể tìm hiểu thêm về Họ đạo Kinh Đức Bà tại: https://www.giaoxugiaohovietnam.com/CanTho/01-Giao-Phan-CanTho-KinhDucBa.htm

[2] Một quyển sách tập hợp nhiều kinh nguyện của người Công Giáo miền Nam Việt Nam thời xưa hay dùng.

18 tháng 5, 2022

Chuyển ngữ: KHI TÔI BỎ LẠI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN (IT) ĐỂ GIA NHẬP DÒNG TÊN

 Đang khi làm việc, đột ngột mũi tôi bị chảy máu và tôi nấp vào nhà vệ sinh để tránh người khác nhìn thấy. Hiện lên trong gương là một con người với tâm thần băn khoăn nhìn tôi chằm chằm; tôi đã dự định phải làm gì đó cách dứt khoát để giải quyết tình trạng này.


Làm việc cho ngành Công nghệ Thông tin (IT) ở Anh vào năm 1988, tôi dần mất đi niềm vui trong công việc và dần rơi vào nỗi buồn sâu xa. Ngay cả những hoạt động trong lúc rảnh rỗi như chơi lướt ván buồm cũng không giúp cải thiện tình trạng của tôi tốt hơn chút nào. Trong tâm thế gượng gạo, tôi nhìn vào bên trong những chuyện đang xảy ra và nhìn ra bên ngoài với nỗi tuyệt vọng, lúc đó tôi lái xe đến một tu viện Bê-nê-đíc-tô ở Đảo Wight (Anh) để tìm chút lời giải đáp cho đời mình. Ngay khi một người Ki-tô hữu lỗi lầm, thì tôi vẫn biết rằng tu viện đó sẽ là nơi tĩnh tâm gần nhà mình. Mặc dù tuần lễ đó trôi qua bình thường như mọi tuần, nhưng đó là khoảnh khắc mà tôi ngồi một mình trong nhà nguyện vào ban đêm, duy ánh đèn nơi nhà tạm dọi sáng, là lúc tôi có được giây phút thanh lọc tâm hồn mình. Tôi nhận ra rằng mình phải làm gì đó để giải quyết triệt để của nỗi tàn phá tâm hồn. Việc tìm kiếm ấy đã dẫn bước tôi trở thành tu sĩ dòng Tên vào một vài năm sau đó.




Tôi đã vỡ mộng với lối sống mang nhiều hoài bão của chủ nghĩa tiêu thụ và cuộc sống nông cạn. Trong khi những lối sống ấy tăng dần từng ngày thì nó dần gặm mòn tâm hồn tôi và chống lại mọi giá trị đức tin nơi tôi. Sinh trưởng trong một trang trại đã truyền cho tôi những mối tương quan mạnh mẽ của gia đình, tôn giáo và cộng đồng mà tôi sống. Liên Hiệp Anh (Corporate England) đã không là một nơi thích hợp dành cho tôi, tôi nhận thấy điều ấy đè nặng thân xác tôi tựa nỗi áp lực và chút gì đó suy thoái. Nhìn lại, tôi nhận ra giai đoạn của tôi lúc ấy được thánh I-nhã gọi là sầu khổ. Tôi đang rời xa Thiên Chúa và rời xa chính mình. Bây giờ khi nhìn lại, tôi cảm nhận được một trực giác nào đó của sự vô nghĩa ở khắp nơi quanh tôi. Tất cả những việc tôi đã làm là thiết kế phần mềm hệ điều hành và tham dự cuộc chơi mang nặng chủ nghĩa cá nhân, vốn không mang lại bất kỳ hạnh phúc đích thực nào. Ý nghĩa sâu xa của những khó khăn và sự liên lỉ đã thôi thúc và làm thức tỉnh đức tin lầm lỗi của mình, khai phá ra đời sống nội tâm và nhận được một vài chỉ dẫn hướng về phía trước. Điều gì đó sâu xa trong tôi, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tiêu thụ, đã trồi lên gay gắt nhằm chống lại sự thức tỉnh ấy, nhưng sự thức tỉnh đã rẽ tôi sang hướng khác để tôi bước đi.


Tôi bắt đầu tham dự Thánh Lễ trở lại và tham dự vào các lớp học cầu nguyện. Sau cùng, tôi chuyển sang Úc để bắt đầu hành trình mới và thử tìm lời giải đáp cho những vấn đề mà cuộc sống đang gây phiền toái cho tôi. Lúc đó tôi đã khám phá ra rằng linh hướng (spiritual direction) và suy chiêm nhập cảnh (imaginative contemplation) đã mang Kinh Thánh đi vào cuộc đời tôi. Tôi đã là kẻ mù, ngồi ăn xin bên vệ đường, bị lãng quên và ăn xin, nhưng Chúa Giê-su đã nghe, đã chữa lành và đã gọi tôi vào cuộc sống mới. Dành nhiều thời gian hơn nữa ở nhà tĩnh tâm của dòng Tên, tôi đã có một cảm thức bình an lạ thường và cảm thấy như ở nhà mình vậy. Sau cùng, điều đó trở nên rõ ràng hơn khi tôi được kêu gọi trở thành tu sĩ của dòng Tên.


Khi tôi là một tập sinh của dòng Tên, tôi đã đọc tự thuật của thánh I-nha-xi-ô và thấy mình thật gần với câu chuyện cuộc đời thánh nhân. “Khoảnh khắc bị thương: đã làm tan vỡ những ước mơ và hy vọng của thánh nhân, ngài khám phá Thiên Chúa làm việc bên trong con người mình để họa lại Thiên Chúa qua những chỉ dẫn khác nhau ở bề ngoài, và ngài thay đổi lối sống chính mình. Đặc biệt, tôi nối kết với việc hiểu biết về công việc mà Thiên Chúa thực hiện ngang qua những sầu khổ trong tâm hồn và mang con người mình trở về đúng hướng. Tôi biết rằng Thiên Chúa làm việc qua kinh nghiệm sầu khổ mà tôi không mấy hài lòng, để cho tôi một lời mời gọi thức tỉnh mà nhìn lại cuộc sống, thực hiện những cuộc chọn lựa, và trở về đúng hướng. Tôi nhận ra rằng đó là điều cốt yếu để tôi hiểu được linh đạo thánh I-nha-xi-ô. Sự nhận thức muộn màng khiến tôi biết ơn vì sự thức tỉnh này.


Tác giả: Brendan McManus, SJ

Chuyển ngữ: Little Stream

Nguồn: https://www.ignatianspirituality.com/

10 tháng 5, 2022

Truyện ngắn: DỪNG!

 Em dừng lại chặng đường mà lâu nay em bước. Em chỉ nói với tôi nhẹ nhàng rằng: “Anh! Em xin về!”. Tôi giật mình và bất ngờ trước quyết định của em.


Em… Người tu sĩ trẻ đầy nhiệt huyết. Chợt nhớ những ngày em còn cháy bỏng ngọn lửa nhiệt huyết dâng hiến trong đời tu. Nhỏ tuổi đời và nhỏ tuổi vào dòng hơn tôi, nhưng cái tình đồng hương quý mến nối kết anh em tôi trong lý tưởng ơn gọi nơi đây. Em hay kể tôi nghe những thao thức và khao khát em muốn thực hiện trong tương lai. Những lúc khề khà bên ấm trà, tôi có hỏi: “Nếu có khó khăn…”. Chưa dứt lời em đáp lời tôi rằng: “Thì mình bước qua chớ sao anh!”


Có lẽ hôm nay, khi em nói với tôi quyết định rời dòng, chắc em đã và đang và sẽ chứng minh điều em nói, là vượt qua khó khăn bằng ơn Chúa và sự nỗ lực của mình.




Em nói cho tôi nghe chuyện bất ngờ ấy vào thời gian áp lễ Chúa nhật thứ Tư mùa Phục Sinh – cũng là dịp Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục tu sĩ. Em tâm đắc với lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong Sứ điệp nhân ngày Giáo Hội cầu cho ơn thiên triệu 2022, có đoạn viết rằng: “Mỗi người, ngay cả trước khi gặp gỡ Chúa Kitô và đón nhận đức tin Kitô, đều nhận được ơn gọi căn bản là: mỗi người trong chúng ta là một thụ tạo được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương; mỗi người chúng ta đều có một vị trí riêng và đặc biệt trong ý muốn của Thiên Chúa. Tại mỗi thời điểm của cuộc đời, chúng ta được mời gọi nuôi dưỡng tia sáng thiêng liêng này, hiện diện trong trái tim của mỗi người nam và người nữ, và do đó góp phần vào sự phát triển của một nhân loại được truyền cảm hứng bởi tình yêu và sự chấp nhận lẫn nhau.” Buổi gặp lần cuối trước khi em trở về quê, em bảo tôi rằng: “Em vẫn sống ơn gọi căn bản là người Kitô Hữu thật tốt mà anh! Rồi em sẽ tiếp tục tìm một ơn gọi đặc thù cho mình giữa lòng Giáo Hội. Anh đừng lo cho em! Em biết phải làm gì mà!.”


Khuấy ly cà phê đen ở quán vỉa hè. Nụ cười thân thiện hiền lành vẫn nở trên khuôn mặt em như trước đây. Cứ mỗi lần gặp là em lại cười. Nụ cười có sức trao ban bình an và niềm vui cho mọi người mà em gặp. Ngay cả lúc nói lời tạm biệt… như thế này em cũng cười.


Con người tôi trong khoảnh khắc tạm biệt bị lấp đầy bởi những cảm xúc ngổn ngang. Chẳng biết gọi tên cảm xúc ấy thế nào đây. Mừng vì em có quyết định dứt khoát thay vì dây dưa trong nỗi trống vắng. Buồn vì tạm biệt em – một người bạn rất thân – đã cùng chung trên con đường lý tưởng. Nhớ vì một khoảnh khắc tương lai khi không còn em kề cận. Mong vì mang chút tham lam em sẽ quay lại và ước gì chuyện rời dòng đã không xảy ra. Cũng mong em được hạnh phúc thay vì trằn trọc trong nỗi buồn canh cánh bên lòng vì chọn không đúng đường… Đối diện với những ngổn ngang ấy, tôi chỉ thinh lặng thay vì nói chuyện vui cười như mọi khi gặp và nói chuyện với em.


“Rồi sắp tới…” tôi chưa dứt lời em trả lời trong thái độ bình thản: “Em về với ba má một thời gian. Đi xa nhà nhiều riết ba má cũng nhớ em. Về để ba má vui đôi chút rồi em tính tiếp!”


Nhìn ánh mắt buồn của tôi, em đáp lại bằng ánh mắt vui. Dường như không có khoảng nào phù hợp để hài hòa hai cái cảm xúc trái ngược ấy với nhau. “Anh! Đáng anh phải vui chớ!” Tôi trả lời vắn gọn: “Ừ! Anh biết!”


Muốn hỏi thăm sâu hơn nhưng tôi sợ khơi lên những cảm xúc mà tôi đoán là sẽ cản ngăn cái bình thản hiện tại của em, nhất là trong chốc lát em sẽ bon bon trên chiếc Wave Alpha về tới quê nhà. Nhìn ra chiếc xe buýt vừa dừng tại trạm để vài người khách xuống, sau đó tầm chục bạn sinh viên bước lên, tự nhiên tôi bộc lên suy nghĩ của mình thành tiếng: “Không biết chiếc xe buýt có vui khi cứ chạy rồi dừng, chạy rồi dừng không ta?” Tôi hỏi điều ấy trong suy nghĩ vô thức vì từ đầu tới giờ vẫn miên man nghĩ tới em.


Em vẫn bình thản nói với tôi: “Nếu nó vận hành theo ý ông tài xế thì hẳn nó vui chớ anh! Mắc gì phải buồn!” Chắc em biết tôi muốn nói về em.


Câu trả lời chợt khiến tôi bừng tỉnh. Cảm xúc ngổn ngang dần vơi. Lẩm bẩm lại ý tưởng của em: “Ừ hén! Nếu nó chạy theo ý ông tài xế và nó làm ổng và hành khách vui lòng thì nó phải vui chớ!”. Tôi nở nụ cười vẫn còn chút gượng gạo với em.


“Thôi em đi! Anh ở lại khỏe và bền đỗ nghen!”. Cái bắt tay gần như dịp cuối vì biết chừng nào mới gặp lại. Mắt tôi gần như đỏ. Mắt em cũng muốn đỏ. Chợt em phăng ngang cái cảm xúc ấy: “Ngộ! Em về chớ anh về đâu mà buồn! Vô duyên hết sức! Thôi… đi à!”


Tôi cười nhẹ vì mọi khi tính cách em vẫn vậy. Vẫn ngông nghênh và mang chút vô tư nhưng khiến người đối diện bình an và vui vẻ. Tiếng xe máy nổ, em ngoái lại nói đúng vài tiếng: “Đi à! Về dòng đi!” rồi xe chạy xa dần. Nắng chiều dọi xuống nón bảo hiểm, xuống vai áo khoác xiên xuống mặt đường hiện rõ bóng người và bánh xe bon bon. Nắng cũng dọi xuống tấm đầu trần và bờ vai tôi, cũng xiên xuống mặt đường, hiện rõ bóng người lẩn thẩn bước về dòng.


                                                                                    Little Stream

07 tháng 5, 2022

Truyện ngắn: LŨY THẦY

 

(Truyện ngắn – Kính tặng mẹ nhân ngày Mother’s Day)


Má kể: “Nghe đâu ngoài Bắc có cái lũy tên là Lũy Thầy!”


Thằng Tí ngúng nguẩy cái đầu thắc mắc: “Lũy Thầy! Nghe ngộ má hén! Mà lũy là gì?”


Má trả lời: “Giống như cái đê người ta đắp lên ngăn nước mặn dưới mình đó! Còn ở đây cái lũy này được xây lên để ngăn quân giặc xâm lăng!”


-“Vậy có cái lũy là an tâm! Không sợ gì hết nữa hả má?”


-“Đúng rồi! Có cái lũy thì mấy đứa nhỏ giống cu Tí được ngủ ngon giấc. Tía nằm yên dưới lòng đất mà không bị đào bới. Má an tâm đi làm có tiền ra tiền vô lo cho cu Tí. Sướng nhất đời hén!”


Tí nhớ hoài cái Lũy Thầy mà má kể hồi nẫm. Nghe thì thích thú và muốn có lúc nào đó ra thăm. Mấy bận Tí nói với má: “Mai mốt Tí lớn, đi làm kiến tiền thiệt nhiều, rồi Tí dắt má ra Lũy Thầy hén!”


Má cười lấy ngón tay dí đầu Tí sang một bên, nói vui: “Ờ! Nghe cũng đặng chớ!”




Má có mỗi mình Tí. Tía chết mấy năm rồi! Chết vì trời đánh. Hôm đó đang đi làm đồng về, thấy trời mưa sấm dữ quá người ta nấp vô mấy cái chòi hết trọi. Tía cũng chạy vô nấp, cầm trên tay mấy con cá lóc với mấy con cá rô xâu vô sợi cỏ trâu mọc bên bờ ruộng. Nhưng thấy trời tối quá thì sợ má con Tí đói bụng vì hổng có gì ăn. Tía chạy cái ù ra ngoài trời đang mưa và sấm dữ dội hướng về nhà. Chạy độ vài trăm mét thì trời phát: “rầm!”, tía nằm xải lai giữa đường đi. Bà con chạy ra khiêng tía về cho má với Tí.


-“Tí! Chạy qua buồng bên kia lấy cho má bộ đồ nâu của tía. Lấy khăn với cái thau nước sạch đem vô đây cho má!”


Thằng nhỏ bảy tuổi đầu làm theo răm rắp. Má lật người tía lột bộ đồ ướt nhẹp ra. Vài chỗ bị rách chắc tại hồi nãy khiêng về bị mắc nhánh cây hai bên đường. Thằng Tí bước vô thấy tía nằm sõng soài trần trụi trên giường, mắt nhắm nghiền, chỉ đắp hờ tấm khăn rằn chỗ cần che. Má biểu gọn hơ: “Để đồ ở đây cho má! Ra ngoài để má lau mình cho tía!” Bà con đứng xôn xao ngoài cửa bàn tán. Lát sau má trong buồng bước ra, nói nhỏ gọn: “Bà con đưa ổng ra giùm em!” Mấy người người đàn ông bước vô buồng khiêng tía ra đặt trên bộ ván trước nhà. Mấy cô phụ nữ giúp chỉnh lại dáng nằm, kê gối, chuẩn bị bàn thờ. Hôm sau mọi người giúp đưa tía ra cái huyệt đất sau nhà. Gọn, lẹ, má khóc chút chút chứ không than thở ỉ ôi như mấy cô phụ nữ khác như Tí thấy ở mấy cái đám ma khác.


-“Má ơi! Sao má hổng khóc!”


Má trả lời tỉnh rụi:


-“Sao lại phải khóc hả con? Tía đi trước rồi từ từ mai mốt má già cũng đi theo tía mà! Ai mà hổng chết! Mắc gì khóc?”


Má biểu hổng mắc khóc mà tối tối má úp mặt vô vách khóc ngon ơ! Khóc y như ai lấy cây roi đánh vào người má vậy. Lâu lâu má giật nhẹ mấy cái rồi nằm im như cố nén. Tí giả bộ ngủ chớ cũng tỉnh rụi vì nghe tiếng “hức…! hức…!”. Nó hổng dám động đậy vì nó biết chỉ cần rờ nhẹ là má dụi mắt làm cứng rắn: “Hổng ngủ đi con? Thức gì giờ này?” Rồi hễ nó hỏi thì má biểu: “Ờ! Con bồ hóng rớt vô mắt! Cái con kỳ ghê!”. Mãi sau này Tí mới hiểu buổi tối má đốt đúng cây đèn chong treo giữa nhà, trong phòng hai má con nằm tối thui, thì làm gì có bồ hóng mà rớt vô mắt.


Má làm mọi chuyện thay cả phần tía kể từ hôm tía ra đi. Mọi khi còn tía thì má lo líp rau sau nhà. Còn tía lo miếng ruộng ông bà để lại, miếng ruộng cách nhà không xa lắm, chắc tầm nửa tiếng đi bộ. Vậy mà mọi chuyện má lo trọn vẹn. Má cũng hổng để ý tới ông nào trong xóm dù cái tuổi mới gần bốn mươi, vẫn còn đẹp lắm trong mắt bao người. “Bộ… hổng bước thêm bước nữa hả? Còn trẻ quá trời quá đất mà!” Má lắc đầu cúi mặt trả lời mấy người hàng xóm: “Thôi! Ở vậy nuôi thằng Tí. Ráng nuôi nó nên người cho tía nó an lòng.”


Má thương Tí vô ngần nhưng cũng cứng rắn dạy bảo. Mỗi lần làm gì sai là má lại đánh đòn khiến Tí sợ lắm. Nhưng mỗi lần đánh xong, Tí quỳ gối lên thút thít: “Con xin lỗi má! Từ đây đép tới con hổng dám làm vậy nữa!”. Vậy là má quăng cây roi vô vách mà ôm chằm cái đầu nhỏ xíu của Tí vô lòng. Má không giận dữ như lúc nãy mà chuyển sang dỗ dành: “Tí ơi! Con phải ngoan nghen con! Nhà có mỗi má con mình thôi!” Tí có cảm tưởng mỗi lần má nói câu đó là má dòm lên bàn thờ có tấm hình của tía trên đó. Có lẽ má khóc nhớ tía, nhưng má cũng khóc vì thương cho phận đàn bà góa một mình nuôi con, hay má khóc vì Tí hư hỏng. Nói chung Tí biết má khóc vậy thôi, được nư Tí cũng khóc theo má, khóc ngon lành, khóc còn hơn hồi nãy bị má đánh đòn nữa.


“Tí! Lên xe nhanh con. Trễ học rồi!” Má hối Tí nhanh chân xốc cái cặp và cầm theo nắm xôi ngọt má mua hồi sớm giờ vẫn còn âm ấm. Tí nhanh chóng ổn định, má lấy sức đạp chiếc xe cũ kỹ, dây sên kêu cót két. Ngồi sau lưng, Tí ngáp mấy bận liên tục, má biết Tí buồn ngủ vì hôm qua thức khuya ôn bài cho buổi thi hôm nay. “Buồn ngủ hả con?” Tí ôm ngang bụng má thiệt chặt, trả lời với giọng nửa mơ nửa tỉnh: “Dạ!”. Hai bàn tay nhỏ xíu ôm chưa hết bề ngang bụng, những ngón tay thon dài với những chiếc móng gọn gàng mới cắt hôm qua. Má buông một tay ra nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của con. Bàn tay mềm mượt và non tơ. Bàn tay với những búp măng nho nhỏ đỏ hồng, má chợt nhớ Tía. Từng đốt xương, khúc gấp và cả mấy cái búp đầu ngón tay cũng y như tía. Nắm tay Tí mà má ngỡ nắm tay tía.


“Nay thi được hông con?” Tí nhanh nhảu trả lời má cách vui tươi: “Dạ được! Con làm hết mấy câu hỏi tiếng Việt với giải hết cả chục bài toán luôn.” Má nhìn khuôn mặt với vầng trán cao và mũi tẹt của Tí cũng y như tía hồi còn sống. Tóc của Tí và của tía cũng cháy nắng khét lẹt, nhưng của tía là đi làm ngoài trời cả ngày, còn của Tí là do đi chơi ngoài nắng cả ngày. Má hôn mái tóc của Tí mà hai mắt đỏ hoe. Nhưng nhờ tánh tình cứng rắn nên không để nhỏ ra giọt nước mắt nào. Nhiều lúc Tí tự mắc cỡ với chính mình vì thấy mình còn “mít ước” hơn cả má. Càng hiểu biết chút đỉnh, Tí biết đàn ông con trai phải cứng rắn chứ ai đâu như nó hở tí là khóc, hở tí đòi má. Càng hiểu hơn rằng mình phải thay tía lo cho má, chứ không phải để má lo cho mình hoài.



-“Đồ đạc má xếp vô va li hết rồi! Ngủ sớm đi! Mai lên đường!”


Má vừa định quay lưng đi thì Tí với cầm vội bàn tay má. Bàn tay xương xẩu và nhiều chỗ chai sần. Tí muốn khóc. Má quay lại dòm rồi nói với cung giọng vui tươi: “Trời ơi! Cái thằng! Đi rồi dzìa chớ bộ tính ở trển hổng dzìa sao mà khóc?” Tí ôm ngang bụng của má, má nói tiếp: “Thôi! Ngủ đi! Ngủ sớm mai ra bến xe đò! Quởn dzìa thăm tui!”.


“Quởn dzìa thăm tui!” Câu nói của má hình như có gì đó nhoi nhói trong lòng. Chiếc xe lăn bánh rời quê. Tí chợ ngẫm: “Chắc má buồn lắm khi phải nói câu này!”. Đây là quê mình mà, sao má lại nói là “về thăm”? Hành động thăm viếng chỉ dành cho những ai tới những chỗ lạ lẫm xa hoa, đất khách quê người, chứ sao má lại biểu là “dzìa thăm tui!”. Tí tự ngẫm: “Hổng lẽ má muốn mình đổi quê”.


Thắm thoắt thời gian trôi nhanh. Việc học hoàn tất và khi ra trường Tí được một công ty nhận vào vì những thành tích cố gắng ở trường được công ty ghi nhận. Mức lương khá nên Tí có tiền lo cho má và lo xoay sở nơi ăn chốn ở cho mình ở chốn Sài thành. Mỗi dịp nghỉ là Tí lại tranh thủ sắp xếp về với má ở quê.


Hơn sáu mươi tuổi mà má vẫn làm việc đồng áng, vẫn chăm mấy líp rau sau nhà cắt ra chợ bán mỗi buổi sớm. Số tiền Tí dành dụm gửi về má ít khi xài tới, thường chỉ khi cần thiết như bệnh tật hay từ thiện giúp bà con thì má mới dùng tới, còn lại toàn bộ má cất trong nơi kín đáo, biểu: “để dành thằng Tí lấy vợ.”


Dịp về tết lần này Tí được ở với má hơn hai tuần kể từ trước tết cho hết mùng. Thấy Tí về má vui vẻ và tinh thần có phấn chấn hơn rất nhiều. Nhất là má chuyện trò nhiều hơn vì tuổi cao và quanh năm có một mình nên ít khi mà giao tiếp với người ngoài. Một buổi tối Tí đề nghị:


-“Má ơi! Con đưa má đi Lũy Thầy nha!”


Má nhìn Tí cười, để lộ vết chân chim hằn rõ trên hai đuôi mắt và trán.


-“Cái thằng! Nhớ chi dai dữ! Chuyện má kể hồi nẫm mà bây còn nhớ tới giờ!”


-“Đi nha má! Con làm có tiền rồi! Giờ đủ lo cho má về tuổi già mà! Má muốn đi đâu, con đưa đi đó.”


Má cười hiền từ. Không từ chối cũng chẳng đồng ý. Cứ lảng sang chuyện khác. Câu chuyện cứ vậy tiếp nối cả đêm.



Quan tài của má được đặt nằm giữa nhà! Tí đưa vợ và con cùng về quê chịu tang má. Đốt ba cây nhang rồi từ từ chuyền từng cây một cho vợ và con, cả ba mái đầu đeo khăn trắng lặn ngụp trong làn khói mờ ảo. Tí nhìn vào khuôn mặt của má trong quan tài qua một lớp kiếng. Má vẫn bình thản, dịu hiền nhưng không thiếu nét cứng rắn. Bao nhiêu ký ức về khuôn mặt của má lại tái hiện về trong tâm khảm của Tí. Cái nét mặt đáng thương ngày tía ra đi, má thút thít một mình bên vách nhà. Nét mặt giận dữ nọc cho mấy roi thiệt đau rồi nét mặt khổ sở năn nỉ: “Ngoan nghen con! Còn có hai má con mình thôi!”. Nét mặt vui cười khi thấy Tí có kết quả học tập tốt, ngoan ngoãn. Nhớ nhất là nét mặt lúc mấy cô hàng xóm kêu má lấy chồng mới cho cu Tí có cha, nhưng má cúi đầu từ chối, chính khi ở cái tuổi làm chồng và làm cha, Tí mới hiểu quyết định ở góa của má là can đảm và phi thường biết nhường nào. Điều quan trọng là Tí khám phá ra rằng không phải người phụ nữ không biết khóc, lành lùng và cứng rắn, thực ra họ mềm yếu lắm, nhưng tình thương yêu là động lực để họ dám làm tất cả… Đúng rồi! Má thương tía! Má thương Tí.


Nép đầu vào thành quan tài, Tí thấy vách quan tài cao cao tựa như cái Lũy Thầy trong lời kể của má. Dù má đã nằm xuống nhưng má vẫn là Lũy Thầy che chở đời cu Tí. Cu Tí dù gần bốn mươi mà vẫn thấy mình nhỏ xíu. Cái Lũy Thầy cuộc đời má đang chắn che cho đời Tí. Sống cũng chắn che. Chết cũng che chắn.


                                                                                    Little Stream

06 tháng 5, 2022

Tản mạn: CHÚNG TA CÙNG CỔ VÕ ƠN GỌI

ĐỌC BÀI ĐĂNG TRÊN BÁO QUỐC TẾ 


Mỗi dịp Chúa Nhật IV Phục Sinh sắp đến, bạn sẽ thấy các cộng đoàn dòng tu ráo riết chuẩn bị cho việc cổ võ ơn gọi. Việc làm này thường chỉ tổ chức đặc biệt vào dịp lễ cầu cho ơn Thiên triệu linh mục, tu sĩ mà thôi, còn các dịp khác trong năm thường chỉ được thực hiện trong quy mô nhỏ. Tổ chức đặc biệt ở đây được hiểu là quy mô rộng lớn khắp các nhà thờ Công Giáo, thêm vào đó là những hình thức sáng tạo khác nhau để cổ võ ơn gọi linh mục và tu sĩ nơi người Kitô Hữu. Có người ví von ngày này là “ngày Hội của các Dòng Tu”. Ví von như thế cũng không sai vì đó là dịp mỗi dòng tu giới thiệu về ơn gọi của dòng tu mà họ đang bước theo hầu mong dấy lên nơi lòng khao khát trở nên linh mục tu sĩ mà Chúa mong muốn nơi người trẻ. Tuy nhiên, lối ví von kể trên cũng chưa hẳn là đúng, bởi chỉ mới dấy lên lớp vỏ bên ngoài trong bao nhiêu tầng ý nghĩa sâu xa của ngày lễ này.


Thực khi nhắm đến cụm từ “ngày hội” thì người ta có thể tưởng tượng khung cảnh như một ngày hội chợ chẳng hạn, với những gian hàng được đặt ở khắp nơi và trưng bày đủ thứ mặt hàng bắt mắt. Những khung cảnh xung quanh cũng được đầu tư và có nơi cũng không thể thiếu chương trình văn nghệ với sự góp mặt của các ca sĩ Công Giáo. Nghĩ tới khung cảnh ấy thì vui quá! Nhưng “ngày Hội của các dòng tu” có phải được hiểu với vẻ ngoài như mô tả không? Có phải đó là ngày các dòng tu có cơ hội phô bày những bộ tu phục và đồ “hand-made” đẹp? Có phải là ngày thể hiện ơn gọi dòng này có điểm mạnh này, còn ơn gọi dòng kia có điểm mạnh khác? Có phải những cử điệu, tờ bướm hấp dẫn, những lời giới thiệu hùng hồn thuyết phục các bạn trẻ là mục đích của ngày lễ này? Rồi cuối cùng có ai đó suy nghĩ rằng: Có phải ơn gọi tu trì thì tốt đẹp, thánh thiện và cao cả hơn ơn gọi gia đình hay ơn gọi sống độc thân giữa đời? Thật lòng, xin đừng hiểu như vậy vì vô tình sớm muộn suy nghĩ ấy sẽ làm biến chất đời tu, thậm chí còn làm lệch cái nhìn giữa các bậc sống ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội.




Trong Sứ điệp của ĐTC Phanxicô cho Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2022[1] được Phòng báo chí Tòa Thánh phổ biến vào ngày 5/5 vừa qua, ĐTC nhấn mạnh về vai trò của “ơn gọi chung” trong lòng Giáo Hội hiệp hành. Ngài đã nói ngay từ đầu rằng: “Từ ngữ “ơn gọi” không nên hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ dùng để chỉ những ai theo Chúa trên con đường dâng hiến cụ thể. Tất cả chúng ta đều được mời gọi tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô là quy tụ nhân loại đã phân tán và hoà giải nhân loại với Thiên Chúa.” Chính vì thế, dù bất cứ bậc sống nào trong Giáo Hội cũng đều được mời gọi sống “ơn gọi căn bản là: mỗi người trong chúng ta là một thụ tạo được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương; mỗi người chúng ta đều có một vị trí riêng và đặc biệt trong ý muốn của Thiên Chúa.” Tiên vàn, hãy sống trọn vẹn ơn gọi căn bản ấy của mỗi Kitô Hữu trước khi nghĩ đến bất kỳ ơn gọi đặc thù nào khác.


Mục đích cốt yếu của “ơn gọi chung” được ĐTC nhắn nhủ: “Thiên Chúa đặt một lời kêu gọi cụ thể cho mỗi người chúng ta. Người chạm đến cuộc sống của chúng ta bằng tình yêu của Người và hướng nó đến mục đích tối hậu, đến sự viên mãn vượt trên cả ngưỡng cửa của cái chết. Đó là cách Thiên Chúa đã muốn và đang nhìn cuộc sống của chúng ta.” Chính vì thế, dù bất cứ bậc sống nào trong lòng Giáo Hội đều được mời gọi hướng đến mục đích cao nhất là để Thiên Chúa chạm vào chúng ta, để nơi đó chúng ta cảm nghiệm được tình yêu lớn lao mà Người dành cho mỗi người cách riêng, sau đó từng người lại giới thiệu Chúa cho những con người quanh mình theo cách mà Chúa đã tác động và cách mà Giáo Hội hướng dẫn. Trong tinh thần chung ấy, ngày cầu cho ơn Thiên triệu linh mục tu sĩ và hành động cổ võ ơn gọi kèm theo cũng chỉ là cách mà các tu sĩ giới thiệu lối nẻo đến cùng Thiên Chúa cho các bạn trẻ trong ơn gọi đặc thù của dòng tu mà họ đang sống và phục vụ mà thôi.


Ngang qua việc cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ trong Giáo Hội, Thiên Chúa không bỏ sót ơn gọi gia đình hay ơn gọi sống độc thân giữa đời, nhưng Người vẫn tiếp tục khơi lên “những tiềm năng, đôi khi chính chúng ta chưa biết, và trong suốt cuộc đời của chúng ta”. Thật bất ngờ, Thiên Chúa đã, đang và sẽ “làm việc không mệt mỏi để chúng ta có thể phục vụ lợi ích chung.” Chính vì thế, trách nhiệm của mỗi người Kitô Hữu không chỉ giới hạn trong những ơn gọi đặc thù của mình, mà còn được hướng tới xây dựng một thế giới huynh đệ. Nơi đó có nhiều mảnh ghép của bao nhiêu ơn gọi khác nhau và họ đang chung tay kiến thiết nên bức tranh yêu thương toàn diện như Thiên Chúa mong ước. Vì vậy, ĐTC nhấn mạnh rằng: “khi chúng ta nói về “ơn gọi”, không chỉ là vấn đề lựa chọn hình thức sống này hay hình thức sống khác, cống hiến cuộc đời mình cho một sứ vụ nào đó hoặc được lôi cuốn bởi đặc sủng của một dòng tu, phong trào hay cộng đoàn giáo hội.” Hơn nữa, “mỗi ơn gọi trong Giáo hội, và theo nghĩa rộng hơn trong xã hội, đều góp phần vào một mục tiêu chung: làm vang lên nơi những người nam nữ sự hài hoà của nhiều ân sủng khác nhau mà chỉ có Chúa Thánh Thần làm được.”


Vào ngày cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ, nếu bạn có chứng kiến những việc làm cổ võ ơn gọi cách nhiệt tình của mỗi dòng tu, hẳn bạn cũng nhớ lại lời của ĐTC đã nói mà hiểu được điều mà các “cổ võ viên” đang làm. Họ không cố lôi kéo một bạn trẻ nào đó vào dòng tu của mình. Họ không hạ thấp danh dự và giá trị của những dòng tu khác để phô bày nét đẹp riêng của dòng tu mà họ đang sống. Họ không nhằm cho thấy chỉ có bậc sống tu trì là đẹp.


Hiểu được điều đó cũng đồng nghĩa với việc ĐTC mời gọi bạn cũng hãy trở nên những “cổ võ viên” để giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho người quanh mình bằng chính bậc sống riêng của mình. Biết đâu qua bạn mà Chúa khơi lên “tiềm năng” ơn gọi của một hay nhiều người nào đó. Bạn hãy vui mừng vì “vườn hoa” Giáo Hội có nhiều loại hoa với nhiều sắc màu, hương vị và đặc thù khác nhau. Và… bạn cũng là một trong những loài hoa ấy. Hãy tỏa sắc hương của riêng mình. Hãy nói về Chúa trong bậc sống của mình. Nhờ đó mà giữa lòng Giáo Hội hiệp hành “Các linh mục, nam nữ thánh hiến, giáo dân bước đi và làm việc cùng nhau để làm chứng rằng một đại gia đình nhân loại hiệp nhất trong tình yêu không phải là viễn tượng không tưởng, mà là chính mục đích mà Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta.”


                                                                                    Little Stream


[1] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-05/su-diep-cho-ngay-the-gioi-cau-nguyen-cho-on-goi-2022.html