28 tháng 3, 2022

Tản mạn: CƠM ĐỘN CỦA MÁ

 Mỗi lần có người thấy tôi ăn cơm độn thêm với chuối, bắp hay khoai, họ thường lấy làm lạ với kiểu ăn của tôi. Dù thức ăn không thiếu, nhưng tôi chọn cho mình một lối ăn đậm chất quê hương, vì đó là lối ăn của đứa con xa quê như tôi luôn hướng về cội nguồn của mình. Còn có người đã cười chọc: “Ăn gì mà kỳ cục! Chẳng giống ai!”. Mỗi lần nghe ai nói như thế, tôi lại cặm cụi ăn trong hạnh phúc.


Tôi vẫn nhớ như in những lần má bới cho tôi tô cơm độn khoai lang và đưa kèm thêm vài trái chuối. Dù bữa ăn có mấy con cá rô mới câu được dưới ao, nhưng những món độn vào cơm là không thể thiếu. Lần đầu cầm lấy tô cơm độn của má ăn ngon lành, nhưng ăn từ từ rồi cũng ngán. Đã có lần tôi trách vì sao má không cho tôi một bữa cơm trắng cho phỉ, má cười hiền từ mà ánh mắt đượm nỗi buồn rười rượi: “Vì nhà mình hết gạo rồi con à!”.




Nhà tôi nghèo nhưng so làm sao với thời gian khó khăn của gia đình ông bà ngoại trước đây. Tôi là con một. Ba má làm việc cật lực để lo cho tôi cái ăn và cái mặc tươm tất và đôi lúc ba má đã không có bộ đồ lành lặn dù là ngày tết cận kề. Còn ông bà ngoại tôi, như lời kể của má, cũng rất vất vả để lo cho mười mấy người con trưởng thành. Ráng cho mấy đứa út đi học còn mấy đứa cả thì chịu khó nghỉ học ở nhà lo cho các em. Má tôi là con áp út, nên được đi học tới hết lớp chín. Đó là phần phúc của má so với các anh chị trong gia đình.


Vì cái nghèo không bao giờ có giới hạn và thời hạn, nên mọi chi tiêu đều hết sức tằn tiện mà chờ ngày khấm khá hơn. Riêng trong khoản ăn uống thì “cơm độn” là món quen thuộc. Với những vị lão niên như ông bà ngoại hay ba má tôi, tôi tin các vị đã học được câu “chan cơm bằng nước mắt” theo đúng nghĩa đen của nó. Bởi đã từng chịu cái đói vây hãm và mỗi khi thấy miếng gạo trắng thì muốn khóc. Khóc vì mừng mà cũng khóc vì buồn. Mừng vì lâu lắm mới có gạo trắng để bỏ vào lưỡi mà nghiến từng chút một cho thỏa vị ngọt và mùi cám còn ám. Nhưng buồn vì mười mấy miệng ăn thì ai ăn ai nhịn. Kết quả là ông bà ngoại tiên phong ăn khoai lang, khoai mì, bắp được độn trong cơm mà nhường cho các con ăn cơm trắng. Các con không khóc mà ông bà ngoại khóc vì nhìn lũ nhỏ ăn ngon lành. Sau này, khi ông bà ngoại mất, má cũng nấu hoài món ăn ấy, mà… mỗi lần cắn miếng khoai, miếng chuối rồi nhìn tôi và… má khóc.


Tôi chọc: “má khóc nhè!”. Má cười mỉm lấy tay hất đầu tôi: “Thằng quỷ!”. Dần lớn, tôi hiểu ý nghĩa về món cơm độn mà má hay nấu cho tôi ăn. Món cơm ấy là món cơm gợi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ. Tôi nhớ hoài lời má giải thích vào những ngày tôi sắp xa nhà: “Má hay nấu cơm độn vì má muốn nhớ hoài cái thời khổ cực mà hạnh phúc. Cái thời còn có ông bà ngoài, các Dì, các Cậu của con trong mái nhà. Nhớ cái hồi mấy mấy miệng ăn túm quanh nồi cơm độn. Con nhớ nhen! Dù giàu có cách mấy, sang trọng cách mấy cũng đừng coi thường món cơm này, vì nhờ nó mà bà ngoại nuôi má khôn lớn và nhờ nó mà má nuôi con khôn lớn.” Má vừa nói vừa kéo tay áo lau nước mắt đang lã chã trên gò má. Má chìa tay đưa tôi ít tiền khi lên Sài Gòn đi học, tay kia má đưa một bao đựng nhiều thứ khoai và bắp, rồi dặn: “Đem theo có gì độn cơm ăn nghen con!”


Sài Gòn với bao nhiêu món ăn ngon, tôi vẫn chọn cho mình món cơm độn vài buổi trong tuần. Hổng biết sao tôi cũng y như má, mỗi lần cắn củ khoai là mỗi lần rớt nước mắt. Cuộc sống của tôi giờ đã đầy đủ hơn nhiều rồi, nhưng tôi vẫn ăn theo lối ăn của má và ông bà ngoại. Tôi chọn điều đó vì nó nhắc tôi cả một thời xa xưa khổ cực và hạnh phúc của ông bà cha mẹ. Chính tôi- thành quả của ông bà cha mẹ – đang được thừa hưởng cái tốt đẹp hơn mà lớn lên sung túc từng ngày. Tôi thực hạnh phúc và hãnh diện vì điều đó.


                                                                                        Little Stream

24 tháng 3, 2022

Tản mạn: CUỐI CÙNG

 Đời người ai cũng đến lúc cuối cùng, đó là lúc mà người ta kết thúc mọi sự nơi trần thế này dù hoàn tất hay vẫn còn dang dở. Điểm cuối cùng ấy có thể là điểm mà nhiều người mong muốn, nhưng cũng có kẻ sợ hãi trốn chạy vì… thực tại ấy kinh khủng quá. Cành cây kia có bao giờ nghĩ đến lúc chiếc lá cuối cùng rơi xuống cách phũ phàng bỏ lại thân cây trơ trọi giữa cái nắng cay nghiệt. Cây cũng chẳng bao giờ nghĩ rằng có lúc không còn khả năng hút thêm chút dưỡng chất nào từ lòng đất và từ sự quang hợp. Cây cũng đâu nghĩ tới một ngày nhựa sống cạn dần và tất cả trôi vào… quên lãng. Sự còng queo báo hiệu cho một sự kết thúc của kiếp cây. Người ta cũng thế thôi.


Nhưng con người và bao sinh vật khác liệu có khác nhau? Hẳn là có khác. Đành rằng định luật tự nhiên quy định mọi hữu thể có sinh rồi có tử, có khởi ắt có kết, nhưng dù cái định luật ấy có phổ biến ngần nào đi chăng nữa, thì giữa con người và bao sinh vật khác vẫn không giống nhau. Có người bảo rằng vì con người có lý trí và sự tự chủ, nên sự khác biệt ấy rất rõ ràng. Với tôi, tri thức hiện tại chưa cho phép tôi chứng minh cách khẳng khái như thế, nhưng tôi đánh giá sự khác nhau dựa trên chính thái độ đối mặt với vấn đề giữa con người với bao nhiêu sinh vật khác. Rõ ràng con người có lựa chọn để có một cái kết cho đời mình như thế nào. Hẳn họ có thể khao khát đi đến điểm cuối vì họ đã hoàn tất những gì họ mong muốn. Họ thao thức được hoàn tất cuộc sống cách hoàn hảo mà điểm cuối là cột mốc. Nhưng… đâu đó vẫn có người vẫn dây dưa với những ray rứt của kiếp người chưa kịp nguôi ngoai.




Có bao giờ tôi dám đặt mình vào một thực tại phải đến và suy ngẫm xem mình sẽ và phải đối mặt với thực tại cuối cùng ấy như thế nào không? Hẳn cũng có lúc tôi đã, nhưng liệu có dám thực hiện những gì tôi hạ quyết tâm ở hiện tại hay không? Hay chỉ cố một quãng rồi thôi! Tôi đã ngừng lại nỗ lực bản thân chỉ vì không cảm thấy cái điểm cuối cùng ấy gần gũi với mình cũng như chẳng có gì liên quan. Hình như cái thực tại ấy nằm ở đâu ngoài mình và, nếu không muốn nói, chúng chẳng dính líu tới những phúc hạnh mà hiện tại tôi đang thụ hưởng.


Nhưng… chính những thực tại ngoài lề ấy lại tiên trưng cho thực tại cuối cùng của chính tôi. Tôi đã dám bước một vài bước chân và hẳn đã cảm chút gì đó niềm hạnh phúc cũng như gặt hái ít nhiều hoa trái. Một ít thất bại vất vưởng trên đường đi cũng là điều khó tránh mặt. Nhưng tôi có đọc ra đàng sau hoa trái và thất bại ấy là gì không? Đó là hai con đường cho cuộc đời. Tôi đã có thể thành công và cũng đã có thể thất bại. Nguyên cớ cho sự thành công là thất bại một vài lần. Nguyên cớ cho sự thất bại là thành công quá nhiều lần. Tôi thấy đời mình đan xen những nước mắt – nụ cười, để lúc nào đó tôi đã bị cuốn vào chính những thành quả hay hậu quả hơn là những thực tại và cùng đích đàng sau chúng.


Tôi đã thấy cỏ cây đi đến điểm cuối cùng. Tôi đã thấy muôn chim thú đi tới điểm cuối cùng. Tôi cũng thấy vạn vật đi đến điểm cuối. Tôi cũng thấy những con người quanh tôi đang đi đến điểm cuối cùng của họ với những tiếng khóc – nụ cười. Tôi hiểu rằng… tôi cũng đang tiến về điểm cuối của đời mình chỉ là không biết xa hay gần mà thôi. Tôi muốn khóc hay cười? Tôi muốn thành công hay thất bại? Tôi muốn cái kết có hậu hay đoản hậu? Vâng!… Tôi đã thấy, nhưng…


                                                                                        Little Stream

21 tháng 3, 2022

Tản mạn: CHỨNG NHẬN LÀM NGƯỜI

 Một vị linh mục đã kể cho tôi nghe một câu chuyện mà ngài vô tình đọc được trên một trang báo điện tử như sau:


Người đàn ông với chiếc nạng bên hông ngỏ lời năn nỉ người nhân viên soát vé xe vì ông đã làm rơi mất tấm vé mới mua:

– “Anh làm ơn cho tôi đi chuyến xe này. Tôi đã dùng hết số tiền mình có để mua tấm vé lúc nãy rồi. Mớ tiền lẻ còn trong túi không đủ để mua lại tấm vé khác. Anh thông cảm cho kẻ tàn tật này!”.


Nhân viên soát vé nhìn người đàn ông, anh ta tỏ vẻ khinh bỉ lớn tiếng:


– “Vậy cho tôi xem giấy xác nhận tàn tật rồi tôi cho ông lên xe.”


Người đàn ông chưng hửng vì lần đầu nghe tới giấy xác nhận tàn tật, ông vội nói:


– “Anh nhìn nè! Tôi tàn tật thiệt mà!”, vừa nói ông vừa quơ chiếc nạng bên chân bị tật trước mặt nhân viên soát vé. Anh ta không nhìn mà chỉ nói:


– “Ở đây không xét người, chỉ xét giấy. Nếu có tiền mua vé khác hoặc có giấy xác nhận tàn tật thì đi. Không thì về!”.






Một người khách đứng gần đó khó chịu với thái độ của nhân viên soát vé từ nãy giờ, vội chạy lại nói với anh:


– “Này anh kia! Anh có phải là con người không?”.


Anh nhân viên lúng túng trả lời người khách kia:


– “Tôi… tôi… là người mà!”.


Vị khách hỏi thêm:


– “Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận làm người của anh đi!”.


Nhân viên soát vé càng lúng túng hơn:


– “Làm gì có giấy chứng nhận làm người!”.


Vị hành khách trả lời với nét mặt lạnh lùng:


“Xin lỗi anh! Tôi chỉ xét giấy chứ không xét người. Anh không có giấy chứng nhận làm người thì nghĩa là anh không phải là người.”


___________________________________________________________


Trước hết tôi muốn xin lỗi vì không thể tìm lại nguồn câu chuyện trên trang báo điện tử để trích nguyên văn mà chỉ thuật lại theo lời kể của vị linh mục. Sau đến tôi muốn cám ơn trang báo và cám ơn lời kể của vị linh mục đã cho tôi một bài học đầy ý nghĩa về tương quan con người.


Ở đâu xã hội càng phát triển và nhiều đóng góp mới mẻ hiện đại, thì hẳn ở đó cần đến tương quan con người nhiều hơn hết. Dám nghĩ như thế bởi quan sát thực tế cho thấy những khủng hoảng về mọi mặt đời sống con người ngày nay khởi đi từ nguyên nhân chính là đổ vỡ tương quan. Hẳn đã có ai đó cho rằng công nghệ hiện đại có thể thay thế cho những tương quan ấy. Ví dụ thay vì gặp gỡ trực tiếp, thì người ta có thể trò chuyện qua điện thoại, Zalo, Zoom, Gmail… Thay vì đích thân gửi tặng những món quà trực tiếp đến tay người nhận, người gửi có thể nhờ vận chuyển quà hay thậm chí tặng những tấm thiệp trực tuyến mà không phải tốn kém chút phí nào. Thay vì cứ phải làm việc với con người, thì một chiếc máy tính bàn, laptop, điện thoại di động cũng đảm bảo cho một người hoàn tất công việc… Nhiều điều khác nữa có thể kể đến.


Tuy nhiên, vấn đề là chúng ta không thể suy xét kết quả để đánh giá toàn bộ vấn đề. Nếu chỉ đánh giá chất lượng cộng việc qua kết quả ghi nhận trên hệ thống máy tính thì quả quá vô tình, vì người quản lý đâu biết những khó khăn, thách đố mà người nhân viên phải cố gắng để hoàn tất công việc ấy như thế nào. Nếu chỉ đánh giá tương quan con người trên phương tiện giao tiếp với tần suất bao nhiêu lần, nói những chuyện gì, chất lượng cuộc giao tiếp ra sao thì thực điều ấy quá nông cạn. Bởi tương quan con người còn là sự quan tâm, giúp đỡ cùng giúp nhau thăng tiến trong cuộc sống. Một cuộc gọi điện trực tuyến làm sao biết chắc người bên kia màn hình hoàn toàn khỏe mạnh và gia đình họ vẫn bình an. Để một khi chuyện đã rồi thì người bên này màn hình chỉ biết nói: “Vậy sao? Tội nghiệp quá!”. Tương quan con người chỉ vậy thôi sao?


Hẳn quan điểm của người viết không phủ nhận vai trò của công nghệ hiện đại, cũng không đánh giá thấp những sáng tạo của con người. Nhưng vẫn luôn nhớ rằng công nghệ và sáng tạo là sản phẩm của con người, chứ chúng không phải là ông chủ của con người. Hẳn con người đã sáng tạo ra chúng thì một ngày nào đó cũng có thể hủy hoại chúng. Vì thế, thái độ tựa nương thái quá vào những vật chất như thế là điều lệch lạc khiến vật chất thành mục đích và con người thành phương tiện. Đó cũng chính là ý nghĩa của câu chuyện mở đầu mà tôi đã phần nào cảm nếm được. Làm sao biết được tấm giấy xác thực người tàn tật là chính xác trong khi người tàn tật thực sự đang đứng trước mắt lại không được công nhận. Chính vì xem trọng tờ giấy xác nhận cho thấy tờ giấy quan trọng hơn con người, người nhân viên quên rằng tờ giấy ấy, nếu có, cũng chỉ là công cụ xác thực cho sự tàn tật của người đàn ông ấy mà thôi. Còn đàng này, người nhân viên đánh giá vấn đề theo chiều kích ngược lại.


Con người chất chứa nơi mình nhu cầu tương quan dù bất cứ thời đại nào. Có thể phân tích ra rất nhiều tương quan đan quyện nơi một người. Cụ thể như các tương quan trong: gia đình, công việc, xã hội… Nơi mỗi môi trường họ đảm nhận một vai trò khác nhau và nối kết với người khác để giúp nhau gìn giữ và thăng tiến môi trường sống của họ. Điều quan trọng là họ không xem những phương tiện vật chất làm nền tảng, mà chính yếu là việc thăng tiến nhân cách và đời sống bản thân và mọi người. Một tương quan cũng được xây dựng trên tinh thần tôn trọng phẩm giá con người. Cái nhìn phổ quát và đại đồng về nhân phẩm con người giúp ta có cái nhìn bao dung và dễ đón nhận nhau hơn. Chính vì thế, trong bất cứ môi trường nào mà phẩm giá con người được tôn trọng xứng đáng thì đảm bảo rằng tương quan con người trong môi trường ấy cũng được phát triển cách bền vững.


Qua câu chuyện, tôi nhận ra đây cũng là một lời mời thực tế mà tôi cần suy xét trong Mùa Chay này. Tôi đã có những tương quan nào? Tôi đối xử với những tương quan ấy ra sao? Đâu là điều tôi cần nỗ lực thực hiện hay khắc phục trong những tương quan ấy? Hay tôi tự hỏi mình cách chân thành rằng: Tôi đã xem anh chị em tôi là một con người thật sự hay không?


Khi dám đối diện với thực tại những câu trả lời của mình, tôi vỡ ra nhiều lẽ khiến bản thân bất ngờ. Tựa như thái độ bất ngờ của người nhân viên soát vé xe khi bị người khách đòi cho xem giấy chứng nhận làm người của anh ta vậy. Vậy mà lâu nay…


                                                                                        Little Stream

                                                                                        Photo: Moon

18 tháng 3, 2022

Truyện ngắn: TRÔI...

 1.

Con Sáu bưng cái mẹt chất đầy mấy thứ bánh trong đó. Bánh pía, bánh in, bánh đậu xanh, bánh phục linh… và nhiều thứ bánh linh tinh khác. Mỗi thứ bánh được cho vô một cái bọc nilon nhỏ và được cột chặt bằng sợi dây thun đủ màu xanh, đỏ, vàng. Mồ hôi nhễ nhại, nó lấy tay áo quệt thấm mồ hôi. Sợi quai nón lá và chiếc khẩu trang y tế đã ướt đẫm mồ hôi của Sáu tưởng như có thể túm lại và vắt ra thành những vệt nước trên đường. Nắng vẫn rọi chang chang, đội cái nắng miệng vẫn rao:


-“Ai… bánh in, pía, đậu xanh, phục linh… hông?”


Thường ngày, Sáu lặn lội từ sớm ở các điểm trường học để bán cho mấy đứa học trò. Mấy đứa nhỏ khoái ăn bánh Sáu bán lắm. Nhưng từ hôm dịch bùng lên khiến tụi nhỏ nghỉ học, Sáu chỉ làm mỗi ngày một ít bánh đủ bán lai rai trong ngày, vậy mà vẫn ế. Bánh in và bánh pía có lớp nhưn đậu xanh bên trong cũng muốn chảy ra nước vì cái nóng oi bức giữa trưa. Sáng giờ mới bán được vài bịch bánh phục linh nhỏ.


-“Điệu này chắc ăn bánh thế cơm quá!”


Sáu chậc lưỡi rồi miệng vẫn rao: “Ai… bánh hông?”




2.

-“Con Sáu đâu rồi? Trả tiền nhà tháng này coi!”


Sáu lúi húi mở cửa. Chiếc cửa sắt nhiều chỗ gỉ sét cót két réo lên, khuôn mặt hốc hác xanh xao có chút sợ hãi của Sáu dần xuất hiện. Mới cúi đầu chào bà chủ của dãy nhà trọ, chưa kịp nói lời gì thì bà đã nói:


-“Mấy tháng rồi mày! Trả tao để tao có cái để sống chớ! Tao cũng ăn cơm chớ đâu phải ăn không khí mà bây cứ khất hoài khất quỷ.”


Sáu khiêm tốn cúi mặt nói nhỏ nhẹ: “Dì Chín thông cảm…”


-“Thông cái con khỉ! Thông gì mà thông, cảm gì mà cảm. Tao thông cảm cho mày rồi ai thông cảm cho tao. Cho thuê mười mấy phòng, mà mấy tháng dịch đòi tiền muốn khô nước miếng có ai trả đâu.” Bà chủ ngắt ngang lời của Sáu.


-“Dạ! Dì Chín đợi con vài hôm! Mấy rày bán bánh ế ẩm quá con gom không đủ tiền. Đợi vài hôm con đủ tiền con trả Chín nha!”


Cò kè hồi lâu bà chủ “hứ!” một tiếng rồi bỏ đi. Dáng đi và giọng nói của bà khiến Sáu ám ảnh. Sáu khép cửa rồi lấy cây sắt móc ngang chỗ khóa. Mắt bắt đầu đỏ lên. Chợt nhớ mẻ bánh đang nướng Sáu chạy cái rột xuống bếp.


3.

-“Hai chục, ba chục… ba trăm… năm trăm… một triệu… hai triệu.” Sáu lấy ngón tay thấm nước trên đầu lưỡi rồi đếm đi đếm lại nhiều lần cọc tiền lẻ vì sợ đếm nhầm. Sau đó, túm trọn số tiền gọn gàng vào lớp bọc nilon. Lấy mấy sợi thun cột lại cho kỹ. Sáu cầm lá thư viết sẵn bỏ vào bì thư. “Mai gửi tiền về quê cho ba má với thằng Tí!”


Bỏ tiền và thư vào tủ khóa lại, Sáu lấy chén bới miếng cơm trắng, chan ít nước lã và cầm vài cục muối để cắn thay cho đồ ăn. Mấy rày không buôn bán được gì nên chi xài cũng eo hẹp. Sáu không dám xài tiền mà để dành gửi về quê.


Sáu xa quê ngót nghét cũng chục năm. Vốn là con gái nhà quê giỏi giang và khéo tay, cô biết làm nhiều thứ bánh khác nhau với độ ngon khó ai cưỡng lại khi đã thử ăn một lần. Nhưng ở quê cuộc sống khó khăn quá, trong khi ba má tuổi ngoài tám mươi đâu làm gì để kiếm ra tiền. Là con gái một trong nhà, cô quyết định lên Sài Gòn đi làm. Cũng tiếp tục với nghề làm bánh và bưng mẹt đi bán. Ban đầu Sáu bán khá chạy. Học sinh mê mẩn những món bánh của Sáu. Đầu giờ học, ra chơi và ra về là chúng bu quanh mẹt bánh của Sáu, thoáng nửa buổi đã hết sạch.


Thằng Tí là con của Sáu với… Sáu hổng muốn nhắc tới ba đứa nhỏ vì để lại ký ức buồn. Chỉ biết sau vài năm lên Sài Gòn, Sáu dắt đứa nhỏ biết đi chập chững về. Ngay hôm sau dắt đứa nhỏ ra xã làm khai sinh. “Nguyễn Văn Tí”, Sáu đặt tên cho đứa nhỏ theo họ của mình, tên cha đứa nhỏ để trống. Ba má thấy Sáu buồn cũng không hỏi gì thêm về chuyện này. Chỉ nhớ lời Sáu dặn: “Ba má đừng bao giờ nhắc tới từ ‘ba của thằng Tí’, ‘chồng của con Sáu’ trước mặt thằng nhỏ nhen! Con lên Sài Gòn làm rồi gửi tiền về cho ba má và lo cho thằng Tí giùm con.” Dòm Sáu đội nón lá và xách cái giỏ toòng teng dưới nắng chiều, gió bạt ngược làm đuôi tóc Sáu bay phấp phới, má nhìn ba rồi nhìn về phía Sáu đang đi xa dần mà lắc đầu ngán ngẫm.


4.

-“Làm gái hông? Tiền hơi bị nhiều đó!”


Sáu cười và trả lời cách mỉa mai:


-“Cho bị si-đa chết hả gì bà?”


Mấy cô phụ nữ trọ cùng dãy xí hoắc Sáu, đáp lời cũng với giọng mỉa:


-“Đây thấy đó dễ thương, không trắng trẻo nhưng cũng có chút duyên nên mới rủ. Bộ làm gái hổng phải cái nghề hả gì? Hổng làm thì thôi! Nghèo mà còn chảnh!”


Sáu không thèm để ý lời mấy cô nói, chỉ chăm chú cột miệng mấy bịch bánh chuẩn bị đi bán. Thấp thoáng tiếng mấy người vừa đi vừa vọng lại:


-“Đ.M.! Ngu gì mà ngu dữ! Làm gái đi khách một đêm bằng mấy tháng bán bánh!”


Sáu lẳng lặng chẳng hồi đáp gì.


5.

Bán ế ẩm triền miên. Cách vài hôm Dì Chín lại tới đòi tiền. Cái dáng quen thuộc với khuôn mặt bạnh ra lại xuất hiện. Sáu không định trốn tránh mà chủ đích ngồi ngay cửa đợi. Vẫn câu quen thuộc và thậm chí chửi còn nặng hơn. Bề ngoài Sáu vẫn năn nỉ, nhưng lòng sục sôi tự ái. Dì Chín bỏ đi nước một với những câu chửi: “Đồ lì như trâu! Dai như đỉa!”. Sáu khóc tức tưởi ngay trước cửa phòng trọ, chẳng biết trách ai mà tiếng nói nghẹn ngào: “Trời ơi! Tui là con người chứ con thú đâu mà đối với tui ác dữ vậy nè!”


Tối hôm đó, Sáu gác tay lên trán rồi lăn qua lăn lại, không chợp mắt được. Ngẫm về cuộc đời khổ cực của mình, Sáu lại khóc. Chợt nhớ ba má và thằng Tí ở quê, muốn cuốn gói về quê, nhưng “lấy gì ăn?”, Sáu sực giật mình nghĩ. Cố lục tìm cách nào đó để đổi đời nhanh nhất, dường như trong đầu Sáu lúc này không gì ngoài tiếng chửi của mấy cô phụ nữ hồi ban sáng: “Đ.M.! Ngu gì mà ngu dữ! Làm gái đi khách một đêm bằng mấy tháng bán bánh!”. Sáu chậc lưỡi phân vân vì cái nghề ấy dính tới đàn ông.


6.

“Đàn ông” – hai tiếng đối với Sáu là nỗi kinh hoàng. Nhiều lúc thăm nhà, Sáu thấy thằng Tí thì lại muốn bóp cổ cho nó chết quách cho rồi, vì càng lớn nó càng giống cái người “đàn ông” phụ bạc ấy. Sáu ngán ngẫm điều này bởi thấy đàn ông quá đỗi khủng khiếp. Nói thương đó, yêu đó rồi bỏ đó. Nói thương vừa dứt tiếng, rồi nói bỏ cái rột, mặt cho hậu quả để lại là gì. “Khốn nạn!” Sáu chửi đổng trong đêm tối khó ngủ, “quân khốn nạn!”


Càng chửi, Sáu càng day dứt. Day dứt vì nhớ cái hồi quỳ mọp lạy người đàn ông kia thương cho thằng Tí đương trong bụng, vậy mà người ta trả lời nước một: “Con mày mày nuôi, mắc gì tới tao!”. Trời! Con người ta dốt tới mấy cũng biết đàn bà một mình làm gì đẻ được con. Vậy mà người đàn ông vô trách nhiệm trả lời vô duyên hết hết chỗ nói. Sáu ghét điên lên chỉ tay phát một: “Mày đi đi! Đi đi! Đừng bao giờ cho tao gặp mày một lần nữa!”, Sáu với tay cầm cây dao định xán tới gần đâm hắn, nhưng hắn kịp chạy, không quên ngoái lại chửi: “Đồ con điên!”. Hết nước để nói.


Nhớ đêm đó Sáu ấp thằng Tí mới tượng hình trong bụng khóc cả đêm. Trong bụng mẹ an toàn nên thằng Tí đâu biết gì. Chỉ có mỗi mẹ của nó là thút thít và gặm nhấm nỗi đau một mình trong căn phòng lạnh. Đêm nay, Sáu cũng nằm gặm nhấm nối buồn đau một mình, càng nghĩ tới cảnh đi làm gái – càng nghĩ tới đàn ông – Sáu càng đau hơn bao giờ hết.


7.

-“Chị… Cho em hỏi…”


Một trong những phụ nữ hôm trước gợi ý rủ Sáu đi làm gái hỏi lại:


-“Gì cưng! Đồng ý rồi hả?”


Tiếng nói nhão nhoẹt, dầu thơm trộn lẫn mùi mồ hôi và áo quần nhăn nheo, sắc mặt phờ phạc… hình như hệ quả sau một đêm đi khách còn để lại trên người phụ nữ chắc hơn Sáu tầm chục tuổi gì đó.


-“Bộ đi khách nhiều tiền thiệt hả chị?”


Người phụ nữ móc trong bóp ra một cọc tiền toàn tờ năm trăm ngàn mới toanh. Giọng nói hồ hởi như khoe chiến tích:


-“Tối qua tới giờ chị đi hai khách, được nhiêu nè cưng thấy hông? Gấp mấy lần bán bánh phải hông cưng?”


Người phụ nữ vừa nói vừa vỗ cọc tiền vào gò má và mũi của Sáu. Mùi tiền còn bay nồng nặc với mùi dầu thơm hòa cùng mùi chua loét của mồ hôi khiến tâm trí Sáu muốn nói gì đó:


-“Chị… Chị…”


Sáu lắp bắp không nói ra tiếng chắc vì ngại và sợ.


-“Cưng muốn gì nói nhanh, chị còn về nghỉ. Đi khách cả đêm mệt thấy mẹ!”


Dường như có gì nảy lên trong suy nghĩ của Sáu ngăn ngay họng không để cô thốt ra thành tiếng. Sáu bỏ chạy vô nhà đóng cửa khá mạnh. Lưng dựa vào mặt cửa khóc thút thít. Tiếng người phụ nữ vẫn vang xa và nhỏ dần:


-“Suy nghĩ cho kỹ nha cưng!”


8.

Chuyến xe về quê đã lăn bánh. Sáu ôm túi đồ đựng vài bộ quần áo cũ, vài cái bánh, ít đồ chơi và ít tiền cho ba má. Sáu cũng không quên mua ít sữa loãng xương cho ba má vì mùa mưa sắp về, chắc trời lạnh cũng khiến xương khớp hai người già cũng đau nhiều.


-“Má ơi! Ba ơi! Tí ơi!”


Một bà cụ chạy ra trước cửa, miệng nhai trầu bỏm bẻm, đầu vấn khăn, mặt mày nhăn nheo và hóp lại. Nhận ra giọng nói thân quen:


-“Sáu hả bây? Bây về thăm hả?”


Sáu chạy xổ vào nhà ôm mẹ già thật chặt. Thằng Tí cũng chạy ra ôm mẹ.


-“Ba bây trong nhà! Hôm qua ổng đi làm cỏ mướn chắc phơi nắng cả ngày rồi phát sốt nguyên đêm qua, sáng nay mới chợp mắt xíu. Bây vô nghỉ ngơi để má ra tiệm lấy ít thuốc về sắc cho ba bây!”


Sáu vội móc xấp tiền lẻ trong cặp ra đưa cho má, thỏ thẻ:


-“Má cầm mớ này mua thuốc cho ba!”


Bà cụ chậm rãi như nửa muốn nửa không lấy, nhưng ngẫm lại bệnh tình của ông cụ, bà miễn cưỡng cầm số tiền rồi đội nón lá lên và bước về phía chợ.


Tối hôm đó, ông cụ tỉnh dần, nghe con gái về ông mừng lắm! Ra vẻ không còn bệnh tật gì nữa, miệng cứ hỏi liên hồi:


-“Sao rồi bây? Lên Sài Gòn làm ăn sao? Khỏe không? Nhìn bây ốm quá trời quá đất!”


Nghe giọng ba run run sau cơn bệnh, Sáu muốn khóc. Thằng Tí say mê đồ chơi mà Sáu đem về, nhìn thằng nhỏ Sáu cũng muốn khóc. Má lúi húi rót thuốc trong siêu ra chén cho ba, Sáu nhìn dáng má gầy còm và yếu hơn trước đây, Sáu cũng muốn khóc.


Sáu không trả lời câu hỏi của ba, chỉ ôm ông thật chặt rồi vuốt tấm lưng trơ xương sống của ông.


-“Sao ba yếu dữ vậy ba?”


Ông phân bua:


-“Thì bệnh già mà bây, biết đâu mà lần. Thôi cũng sắp xuống lỗ rồi!”


Sáu nghe tới đó vội lấy tay chặn miệng ông cụ lại:


-“Ba! Đừng nói bậy! Ba sống hoài với má, với con, với thằng Tí! Nghen ba!”


Thắm thoát tới ngày Sáu trở lên Sài Gòn, tối trước hôm ra đi, như sợ con gái nghĩ quẫn, ba cầm tay Sáu nói:


-“Sáu! Làm gì làm cũng phải giữ lòng trong sạch nghen con! Đồng tiền kiếm bằng mồ hôi nước mắt của mình dù ít ỏi nhưng đáng giá, còn gấp đồng tiền nhơ bẩn bao nhiêu lần, con à! Nhớ! Nhớ lời ba dặn.” Lời dặn dò khiến suy nghĩ đi làm gái kiếm tiền trong đầu Sáu dần tan biến sau vài tiếng ho của ông.


Ông nói những điều ấy như thể lo cho con gái vì ông biết Sáu một thân một mình bôn ba kiếm tiền lo cho ông bà già và đứa con còn nhỏ ở quê. Ông đoán được nỗi vất vả của Sáu qua dáng vẻ gầy còm tiều tụy của con. Ông không muốn Sáu rơi vào cạm bẫy của cuộc đời khi bị đồng tiền che mất lương tâm ngay thẳng. Thằng Tí cũng chạy lại ôm Sáu: “Mẹ ơi! Quởn về thăm Tí! Tí nhớ mẹ lắm!”. Sáu hôn lấy hôn để cái đầu khét nắng của Tí, chợt khuôn mặt của nó lại tái hiện về khuôn mặt mà Sáu ghét cay ghét đắng. Nhưng Sáu vẫn hôn thằng Tí vì… nó là con của Sáu mà.


9.

-“Ai… bánh in, pía, đậu xanh, phục linh… hông?”


Giọng rao bán bánh của Sáu vẫn vang đều trên những con đường quen thuộc. Ghé tạm gốc cây trú nắng và uống chút nước cho đỡ khát. Sáu thấy bên kia đường người phụ nữ hôm trước nói chuyện với mình đang ôm gốc cây đối diện đường. Hình như chị ta đang nôn thốc nôn tháo, Sáu nhanh chóng chạy sang bên kia đường. Để cái mẹt xuống một bên, tay vuốt lưng người phụ nữ hỏi thăm:


-“Chị! Chị có sao hông? Bộ nhậu xỉn hả?”


Người phụ nữ ngửa mặt lên nhìn Sáu, chị nhận ra khuôn mặt quen thuộc chung dãy trọ với mình. Người phụ nữ hỏi Sáu:


-“Cưng làm gì ở đây?”


-“Em đi bán bánh! Còn chị? Giờ trưa rồi mà sao chưa về nhà trọ nghỉ? Ăn gì chưa?”


Người phụ nữ sau khi nôn hết thì quay ra ngồi dựa lưng vào gốc cây, mồ hôi nhễ nhại, mặt xanh lè. Giờ thì Sáu nhìn rõ khuôn mặt phờ phạc, có vết bầm trên gò má và cổ. Áo gần như đứt hết nút và hiện tại được cột tạm lại cho đỡ sự lõa lồ. Nhìn qua Sáu đón được người phụ nữ đã gặp chuyện gì. Sáu chìa cánh tay lấy tay áo lau mồ hôi trên trán và má của người phụ nữ, gỡ bịch bánh pía rồi nói:


-“Ăn đi chị! Đói rồi phải hông?”


Cầm miếng bánh ăn liền mấy cái, chợt người phụ nữ ngừng nhai và nhìn đăm đăm miếng bánh cắn dở. Chốc sau người phụ nữ bật khóc rồi nói:


-“Cám ơn cưng! Bánh cưng làm ngon quá! Làm chị nhớ quê, nhớ ba má.”


Sáu quyết định nghỉ bán hôm đó dù trong mẹt vẫn còn hơn nửa số bánh chưa bán hết. Bóng dáng hai người phụ nữ dìu nhau đi về giữa trưa nắng.


10.

Một người đàn ông dừng xe cạnh xe bánh, gọi:


-“Bán cho tôi một bịch bánh in và một bịch bánh phục linh!”


Tiếng “Dạ!” nhanh chóng và người phụ nữ gỡ hai bịch bánh được treo trên xe bỏ vào chiếc túi nilon nhỏ. “Cám ơn anh! Nếu ăn thấy ngon ghé ủng hộ tụi em tiếp nghen anh!” tiếng cám ơn ngọt ngào khiến người đàn ông vui lòng mỉm cười cám ơn cô bán hàng dễ thương. Sáu từ trong nhà cầm hai đĩa cơm ra rồi đưa cho người phụ nữ một đĩa.


-“Ăn đi chế! Trưa rồi! Ăn rồi nghỉ xíu em bán giùm cho, rồi chút chế ra thế em.”


Hai chị em ăn cơm ngon lành, chuyện trò rôm rả. Dì Chín ghé ngang kéo ghế ngồi xệch xuống chỗ hai chị em.


-“Cho Chín bịch bánh phục linh đi hai đứa!”. Sáu mỉm cười nhanh chóng đứng lên gỡ bịch bánh cho vào túi nilon, rồi với tay gỡ thêm bịch bánh pía, cô nói:


-“Cho Chín thêm bịch bánh pía nữa nhen! Có gì lại ủng hộ hai chị em con!”


Dì Chín mỉm cười thành tiếng khoái chí rồi bước đi ra giữa nắng. Dáng đi của Dì hôm nay hiền hơn và Dì nói chuyện cũng dễ thương hơn.


-“Chừng nào chế định về quê!”, Sáu hỏi.


Người phụ nữ trả lời:


-“Chắc mai chế về thăm ba má ít hôm rồi quầy lên bán với cưng.”


Sáu bỏ đĩa cơm xuống ghế, lật đật móc trong túi ra ít tiền rồi nói:


-“Chế cầm ít tiền về gửi ba má của chế! Cho em gởi lời thăm ông bà nhen!”


Người phụ nữ nhận tiền rồi nhìn Sáu cười nói:


-“Cám ơn cưng, Sáu à! Cưng tốt với chế quá! Còn cưng chừng nào nhang khói cho ba má?”


Sáu nhìn về phía mặt đường dọi ánh nắng, Sáu thấy ba má cười với mình dưới làn ánh sáng mặt trời buổi trưa, rồi Sáu thấy Tí – thằng con nay đã lớn – lên thăm mình.


-“Chắc hổng về. Mai thằng Tí lên thăm em!”.


                                                                                    Little Stream

15 tháng 3, 2022

Tản mạn: ĐỜI ĐÁ VÀNG

 Nhạc sỹ Vũ Thành An vốn nổi tiếng với một loạt những sáng tác “Không Tên”, một trong những bài để lại trong tôi bài học ý nghĩa nhất là Bài Không Tên Số 40, với những câu hát đầy triết lý của cuộc sống: “Có một lần mất mát mới thương người đơn độc. Có oằn mình đớn đau mới hiểu được tình yêu. Qua dầm dề mưa tuyết mới vui ngày nắng về. Có một đời khóc than mới hiểu đời đá vàng”. Trong tâm tình Mùa Chay, tôi được đánh động bởi lời tâm sự của nhạc sỹ với người bạn đời của mình về hoàn cảnh sáng tác những câu hát trên: “Để hoàn thành được bài hát này, anh đã qua nhiều mối tình đau, đã cảm nhận hết được những nỗi đau của một kiếp người! Anh còn hiểu thêm được trận đòn kinh khiếp mà Chúa Giêsu đã phải gánh chịu chỉ vì Yêu Thương loài người.”[1]


Khi mới nghe qua bài hát, tôi đã dừng lại bởi một chút sự cuốn hút lạ lùng nào đó từ thông điệp mà tác phẩm muốn gửi gắm. Tôi tin triết lý được rút ra từ bài hát, về những cái giá phải trả để có được “đời đá vàng”, gần lắm với cuộc sống thực của con người trong mọi hoàn cảnh sống, như chính tâm sự của nhạc sỹ về hoàn cảnh viết nên bài hát trong suốt 38 năm cuộc đời vậy[2]. Đồng cảm xúc, tôi cũng chiêm ngắm Tình Yêu trên chính Thập Giá Giê-su, và tự đặt ra cho mình câu hỏi về mầu nhiệm Tình Yêu ấy. Vì sao Con Thiên Chúa lại chọn cách: xuống thế làm người, chịu chết để cứu con người tội lỗi? Vì sao Chúa Cha không chọn một kế hoạch nào khác đơn giản hơn, êm ái hơn cho Con của Người? Chúa không trả lời tôi cách trực tiếp, nhưng nhờ những thầm thì của “Đời Đá Vàng”, tôi dần ngộ ra chút gì đó.




Thi thoảng tôi dễ nói lời đồng cảm với người khác trước những mất mát của họ, nhưng mấy khi tôi thực sự hiểu cảm giác mất mát ấy ra sao và lòng họ đang mong ước điều gì. Đúng là bản thân tôi cần phải can đảm đối diện, chấp nhận và vượt qua trước những thách đố kiếp người; nhờ đó mà tôi có thể thấu cảm, thông cảm với nỗi cô đơn, trống vắng, trơ trọi của tha nhân đồng loại. Có thể kinh nghiệm tôi từng có không giống kinh nghiệm của họ, nhưng chí ít tôi thấy mình dễ tâm sự, chia sẻ hơn vì tôi đã từng có cảm giác tương tự. Cũng vậy thôi, sẽ đâu hiểu được tình yêu nếu không đương đầu trước những thực tế của nó. Thực tế gì? Thực tế đó là những phản bội, giận hờn, đổ vỡ, tha thứ, cảm thông… nói chung là chuyện hợp tan của tình yêu, để ngang qua những thực tại xem ra khó chấp nhận ấy, người ta hiểu được ý nghĩa thực sự của tình yêu và dám trả bất kỳ giá nào để giữ gìn nó.


Đức Giê-su đã dệt nên “đời đá vàng” cho riêng mình bằng chính những gian nan, nghèo khó, đòn roi, phỉ báng, và tột cùng là cái chết đau thương trên Thập Giá. Cụ thể Giê-su đã làm gì? Cùng cha mẹ rong ruổi hết nơi này đến nơi khác ngay từ lúc mới sinh; đã nếm vị mặn của mồ hôi khi phải lao động vất vả mới có cái ăn; mồ côi cha từ sớm; giới hạn mình và chịu tác động trước những vấn đề phức tạp trong xã hội loài người; bị chống đối khi rao giảng Chân Lý; chịu sự cô đơn, hắt hủi từ người Do Thái và thậm chí từ những môn đệ thân tín; nhận án tử hình như những tên tội phạm mang mức án nặng nhất… Thoáng điểm qua để thấy Giê-su đã thấu hiểu và nếm trải những ngọt ngào cũng như đắng cay của cõi nhân sinh như thế nào. Nhờ thấu hiểu, mà Đức Giê-su đã chẳng tiếc gì khi thí cả mạng sống để mang lại ơn cứu độ, vì Người đã thấy hệ quả của tội lỗi và Người biết sự tự nguyện hy sinh của ngài – Ngôi Hai Thiên Chúa – quan trọng đến mức nào. Bài học lớn nhất mà tôi học được nơi con người Giê-su là chính sự can đảm đối diện với những thực tại của kiếp người, không né tránh cũng chẳng than van, dù thực tế đó có ra sao đi nữa. Quả thật, “đời đá vàng” mà Giê-su dệt nên từ 33 năm ở trần thế trở nên ý nghĩa và sinh ích biết bao cho nhân loại.


Nhân loại ngày hôm nay vẫn đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách đố của cuộc sống như: dịch bệnh, thiên tai, lũ lụt, đói kém, chiến tranh, bệnh tật… Chúng ta không ngừng đặt ra những câu hỏi: vì sao? như thế nào? ra sao?… Và câu trả lời cho những khúc mắc ấy, trong niềm tin vào Thiên Chúa, đều được giải thích ngang qua chính con người Đức Giê-su. Đại dịch Covid 19 đã và đang hoành hành khắp nơi, số ca nhiễm bệnh và số ca tử vong ngày càng tăng lên ở chỉ số không tưởng, thậm chí vượt mức kiểm soát của y tế và chính phủ các quốc gia. Trong những tình huống như thế, con người tìm đâu ra câu trả lời trước những thất vọng, hụt hẫng và mất mát của chính mình.


Riêng tôi, trong niềm tin vào Thiên Chúa, tôi tin không có bất cứ điều gì diễn ra trong cuộc sống này là vô nghĩa, vì thế biết đâu “đời đá vàng” của tôi đang được thêu dệt ngang qua chính đơn đại dịch khủng khiếp này. Đó có thể là lúc tôi được gọi ra khỏi cõi đời tạm này mà về với Chúa. Đây cũng có thể là thời khắc chỉnh đốn lại lối sống của mình, cụ thể qua Mùa Chay này. Đây cũng có thể là phút phản tỉnh lối sống và cách cư xử của chính tôi qua bao nhiêu năm sống nơi trần gian này. Tuy nhiên, để dệt nên một cuộc đời ý nghĩa, tôi phải can đảm kinh qua chính những kinh nghiệm của bản thân mình trong từng ngày sống, có thể là thành công nhưng cũng không loại trừ thất bại. Vậy nên, cố gắng để sống trọn vẹn những ngày ý nghĩa và hạnh phúc dẫu cho cuộc sống thuận lợi hay thách đố, vì tôi xác tín rằng nếu mình có ra đi trong chính ngày hôm nay, thì tôi cũng đã hoàn tất cuộc đời ý nghĩa của mình rồi.


Chúa Giê-su là mẫu gương cho mỗi người chúng ta về sự mạnh mẽ, can đảm và hạnh phúc với cuộc đời mình đang có. Khổng Tử đã từng nói rằng: “Khi ta sinh ra, mọi người cười còn ta thì khóc. Hãy sống sao cho khi ta chết đi rồi, mọi người khóc còn ta thì cười.” Vâng! Chúng ta sẽ mỉm cười hạnh phúc khi nhắm mắt xuôi tay khi đã dệt xong đời mình trước muôn vàn cảnh huống, vì: “Có một đời khóc than mới hiểu đời đá vàng”.


                                                                                        Little Stream


[1] Trích thư nhạc sỹ gửi cho vợ mình, xem thêm tại: https://tuoitre.vn/doi-da-vang-1370431.htm

[2] Tác giả đã hoàn tất bài hát trong thời gian 38 năm.