30 tháng 12, 2022

Tản mạn: CHẤM HẾT CÂU...

 Thời khắc cuối năm gợi nhắc tôi về những hành động mang tính kết thúc, dù là tạm thời hay là hoàn toàn kết thúc, nhưng chính những lúc dừng lại cho đời tôi một dấu chấm khi thì duyên dáng và không ít bận vô duyên, lúc thì như điểm xuyết mà cũng đầy điểm yếu.


Chợt gợi nhắc bản thân tôi về những bài tập làm văn thuở nhỏ mà thầy cô đã uốn nắn cho. Hiểu rằng mỗi dấu phẩy là mới tạm ngưng để tôi còn cơ hội viết cho hết câu tròn trịa. Dấu chấm là kết thúc hoàn toàn một ý, một câu trọn vẹn.


Nếu nhìn đời như thế, phải chăng trong năm qua Chúa đã cho tôi biết bao nhiêu dấu phẩy, để sau mỗi dấu phẩy là những cơ hội canh tân và hoán cải đời mình. Dấu chấm cho thời khắc cuối năm là lúc để tôi đọc lại “tuyệt tác” hay “tệ tác” đời mình trong một năm đã qua.




Nghĩ về những lúc đọc lại bài tập làm văn thuở nhỏ, có những câu được xem như “kinh điển” và thành mực thước trong bất cứ bài làm văn nào. Thuở ấy thì viết như thế đã là quá hay, thậm chí có lúc tự gật đầu đồng ý với bài viết được cho là lý tưởng. Nghĩ lại những câu viết ngây ngô của đầu xanh thuở ấy, thì đầu bạc của gần ba mươi năm sau lại bật cười. Nhưng… thú thật, có lúc nào đó đầu bạc muốn viết một câu đơn sơ thế thôi cũng chẳng được.


Xem ra điều ngây ngô trong câu văn thuở nhỏ lại tròn trịa và dễ thương vô vàn. Thêm nữa, mỗi câu ấy là những câu đơn hoàn chỉnh về ngữ pháp thực sự. Còn bây giờ… đặt bút đầu bạc toàn viết những điều phức tạp, rắc rối và đầy toan tính. Điều thách đố lớn hơn cho kẻ đầu bạc là cố tạo ngụy cho mình cái phong thái hợp với bề dày lịch sử đời mình, mà cũng vì lấm lem những thứ hỗn tạp mà đến lúc muốn nghĩ một điều giản đơn thật khó. Chính vì những dây dưa lê thê này mà bài “tập làm văn” của đời tôi đến cuối năm vẫn chưa chấm được. Cứ là những dấu nối liên miên và thêm bớt ý mà vẫn chưa thỏa.


“Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 18,3). Câu nói của Chúa Giê-su vẫn chất chứa quá nhiều khó hiểu. Dấu chấm nhỏ của mỗi giai đoạn đời người đã không cho phép tôi được nhỏ lại, nhưng dấu chấm ấy thách đố lương tâm đầy phức tạp của tôi.


Chúa vẫn cho tôi cơ hội và Người vẫn chờ tôi.


Dang dở… Chưa ưng ý… buồn sầu… Viết tiếp thôi… Rồi Chúa sẽ làm đầy.


                                                                                    Little Stream

29 tháng 12, 2022

Tản mạn: TRI ÂN VÀ HIỆP NGUYỆN

 (Chút tâm tình kính gửi Đức Hồng Y Konrad Krajewski và các tình nguyện viên tại Ucraina)


Trời vào đông, nhiệt độ giảm mạnh kéo theo những cơn lạnh ùa về, chợt thấy lạnh cả ngoài da thịt lẫn chút căm rét bên trong. Nhưng khi đọc được những dòng tin về Đức Hồng Y (ĐHY) Konrad Krajewski trên Vatican News[1] và rất nhiều tình nguyện viên (TNV) đang phục vụ trên mảnh đất Ucraina, nhiều tấm lòng ở khắp nơi lại thấy ấm. Chân thành phải thốt lên rằng: “Xin cám ơn ĐHY thật nhiều và xin cám ơn các TNV thật nhiều!”


Bức hình chụp ĐHY đứng bên cạnh chiếc xe chở máy phát điện đến với anh chị em tại Ucraina trong những lúc khó khăn thực khiến nhiều người cảm thấy xúc động. Trước những khó khăn của chiến sự và những tàn tích để lại khi chiến sự đi qua đã làm cho đoạn đường đến với người dân Ucraina thêm khó khăn và dài hơn bao giờ hết. Trong vai trò là sứ giả đại diện Đức Thánh Cha (ĐTC) để mang sự gần gũi của ĐTC đến những người dân đang chịu đau khổ, ĐHY và biết bao nhiêu TNV đã không nghĩ đến mạng sống của chính mình, cũng không bận tâm phải chuẩn bị điều gì cho bản thân trong cái rét của thời tiết Ucraina và nguy hiểm trực chờ bất cứ lúc nào.


ĐHY Konrad Krajewski viện trợ cho Ucraina


Nơi ĐHY đã thể hiện tinh thần một con người quả cảm bởi trong mọi khó khăn thách đố ĐHY vẫn nghĩ về vai trò mục tử của mình giữa vùng chiến sự. Cam kết dấn thân cho sứ mạng nhằm nói lên lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, cách đặc biệt với anh chị em trong hoàn cảnh khó khăn và chịu thử thách. Chính trong những lúc thiếu thốn này, ĐHY khẳng định rằng anh chị em tại Ucraina không chỉ cần những hỗ trợ vật chất, nhưng trên hết họ “cần sự hiện diện của Chúa Ki-tô”. Chắc chắn qua hành động nhỏ bé của ĐHY và các TNV đang phục vụ nơi đây đã cho thế giới đã nhận ra một Đức Ki-tô sống động và đầy lòng thương xót như thế nào, như điều mà ĐTC nhắn nhủ với ĐHY: “Lòng trắc ẩn… Chúng ta cũng phải bắt chước Đức Giêsu, thông điệp này sẽ mang lại sự can đảm…”


Bên cạnh đó, ĐHY và các TNV còn là một nhịp cầu nối kết. Nối kết không chỉ về sự gần gũi của ĐTC, mà còn nối kết của rất nhiều nhà hảo tâm đóng góp để mua những nhu yếu phẩm thiết yếu. Hơn nữa, bước chân hiệp hành này còn là nối kết tấm lòng của bao nhiêu con người chưa biết đến đất nước Ucraina hoặc chưa đặt chân tới Ucraina một lần hoặc chỉ nghe tin tức loáng thoáng trên báo đài, để từ đó họ cũng ý thức cầu nguyện cho những anh chị em đang chịu đau khổ.  Ánh sáng của tình thương không biên giới được chiếu tỏa từ nơi Thiên Chúa đang được tiếp tục thắp sáng giữa vùng tối tăm, đó cũng là thông điệp tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại trong biến cố Giáng Sinh, cách riêng tại đất nước Ucraina vào những thời khắc này, rằng Thiên Chúa đang cùng hiệp hành với nhân loại trong mọi khoảnh khắc và cung bậc thăng trầm, như ĐTC khẳng định: “Đây là điều mà Đức Giêsu sẽ làm, luôn đặt mình vào vị trí của những người bệnh tật, những người đang đau khổ.”


Tôi mệt!” Lời thú nhận rất chân thành và đơn sơ của ĐHY trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại. Có lẽ điều này cũng là chính cảm thức chung của các TNV và của cả người dân tại Ucraina nữa. Cái mệt mỏi vốn đến từ thể xác của một vị Hồng Y đã sắp bước sang tuổi sáu mươi đang phải di chuyển giữa các thành phố và bị tắc nghẽn dọc biên giới lên tới 25 km, của những anh chị em TNV đã trực liên tục để hỗ trợ người dân khi cần và cũng là cái mỏi mệt đến từ những băn khoăn và mong chờ đến ngày bình yên. Nhưng nhiệt huyết vẫn trào tràn nơi những tâm sự của ĐHY và bao nhiêu TNV nơi đây. Mệt mỏi như một lời than vãn với Thiên Chúa của con người trong những lúc khó khăn và kiệt sức: “Lạy Chúa! Con mệt mỏi quá! Xin Chúa trợ lực cho con trong lúc này”, hoặc như tâm tình của thánh Phao-lô khi quả quyết rằng: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12:10). Chỉ lúc này con người mới nhận ra cách hiển hiện rằng chỉ có Chúa mới có thể làm tất cả, còn những nỗ lực của con người là hạn hẹp và mong manh.


Xin tri ân ĐHY và các TNV thật nhiều đã cho nhiều người nhận ra sự ấm áp giữa mùa đông lạnh. Hiệp nguyện cho anh chị em đang chịu đau khổ tại Ucraina và trên toàn thế giới, luôn được một niềm an ủi sâu xa của Thiên Chúa, qua những lời cầu nguyện từ khắp nơi và qua những bàn tay thiện nguyện. Xin Chúa đồng hành cùng ĐHY, cùng các TNV và cùng những anh chị em đang chịu đau khổ.


                                                                                        Little Stream


[1] https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2022-12/dhy-krajewski-dtc-dau-long-vi-ucraina.html

18 tháng 12, 2022

Thơ: MỞ CỬA RA

 Mở cửa ra tôi bước vào thế giới,

Có đầy hoa và ánh nắng mặt trời,

Có cánh đồng trải rộng khắp muôn nơi,

Muôn sinh vật đang tung tăng phơi phới.



Mở cửa ra tôi bước vào thế giới,

Thấy quanh mình tràn ngập những niềm vui,

Sẻ chia nhau chỉ một chút tiếng cười,

Ôi! Phép lạ! Hoá xanh vùng chết chóc.




Mở cửa ra tôi bước vào thế giới,

Vươn tay ra với kiếp mỏi đời người,

Để san phần với thế giới phần tôi,

Một phần tử nhỏ thôi, nhưng ý nghĩa.



Mở cửa ra tôi bước vào thế giới,

Thấy hôm nay sao khác với hôm qua,

Thấy đâu đâu cũng là những món quà,

Và nhận ra tôi – món quà Thượng Đế.



Mở cửa ra tôi bước vào thế giới,

Tôi thấy mình ý nghĩa giữa đời ai,

Bỏ đi tự ti, mặc cảm đường dài,

Tôi rảo bước đường tương lai vui đón.



Mở cửa ra tôi bước vào thế giới,

Tôi nhận ra tôi mới thật là người,

Khi hoà mình với thân kiếp nổi trôi,

Bè bạn, anh em, đồng bào, đất nước.



Mở cửa ra tôi bước vào đất nước,

Mong góp phần cho kiếp sống đẹp xinh,

Để khát khao sống trọn vẹn chân tình,

Bước chân đi, tôi đằm vào cuộc sống.


                                                                                        Little Stream

09 tháng 12, 2022

Suy tư: BÀI HỌC QUÉT LÁ

 Một đệ tử mới xin gia nhập vào cộng đoàn tu trì, vị bề trên đáng kính đã giao cho cậu bổn phận quét lá các khoảnh sân quanh nhà mỗi ngày. Vị bề trên dạy cậu rằng:


-“Đi tu không phải là học để làm những điều phi thường. Nhưng là để học biết làm những điều tầm thường cách phi thường.”


Đệ tử nhiệt huyết gật gù đồng ý, cúi đầu chào vị bề trên rồi cầm cây chổi đặt sát góc tường để thi hành nhiệm vụ của mình cách vui vẻ.


Những ngày đầu đệ tử làm điều này với nụ cười trên môi, gặp ai bước vào khuôn viên tu viện cũng mỉm cười và chào hỏi. Nhưng việc được kéo dài trong vài tháng liên tục thì đệ tử chợt ngán ngẩm. Chỉ cần nghĩ tới chiếc cán chổi bằng thanh tre nhỏ đã phải sởn da gà. Dù không nói gì với vị bề trên, nhưng cậu tỏ lộ điều ấy qua chính nét mặt bực tức của mình. Khách vào tu viện cũng không còn thấy cậu mỉm cười hay chào như trước nữa, có khi khách đến thăm phải bước sát bên gọi tên thì đệ tử mới giật mình chào lại khách.




Một cảm giác chán nản vô vàn và một màu đen tối bủa vây quanh cậu sau mỗi sáng mở mắt ra nhìn cuộc sống. Vẫn tiếng chuông vọng đều gọi mọi người bước vào nguyện đường. Vẫn tiếng các bạn đồng môn nói cười đang khi làm việc bổn phận của họ cách thoải mái. Riêng cậu cảm thấy mình bị bó buộc và nặng trĩu bởi một tư tưởng nào đó khó tả.


“Quét! Quét! Quét!” Mỗi tiếng nói là mỗi nhát chổi đệ tử hằn lên mặt sân với thái độ khó chịu. Cứ ngỡ làm ở một góc chẳng ai nhìn thấy, cậu lại tiếp tục bộc lên ý tưởng: “Sao không chặt bỏ những cái cây quái quỷ này đi để khỏi quét! Quét gì quét hoài!”


Đệ tử không hay vị bề trên đã đứng sau lưng mình từ khi nào. Ngài chỉ thinh lặng với tràng chuỗi trên tay. Khuôn mặt ngài hiền từ và mỉm cười phúc hậu khiến những nếp nhăn hằn lên trán cũng giãn nở theo nụ cười. Vị bề trên đưa bàn tay vịn bờ vai đệ tử, cậu giật mình quay lại, một cảm giác sững sờ trước bề trên và nhất là cậu đoán bề trên đã nghe những gì cậu nói nãy giờ.


Gãi đầu ngại ngùng, cậu ấp úng :


-“Con! Con! Con xin lỗi…!”


Vị bề trên bước tới chỗ ghế đá đặt dưới gốc cây gần chỗ sân đệ tử thường quét, đệ tử rón rén đi theo sau. Một cơn gió thổi mát rượi mang lại một cảm giác dễ chịu. Vị bề trên hỏi :


-“Con! Nếu chúng ta chặt những cành cây này đi thì chắc chắn ta sẽ không còn bóng mát, sẽ không thấy dễ chịu như cơn gió vừa rồi mang đến con nhỉ! Rồi khách đến thăm tu viện sẽ ngồi hóng mát ở đâu? Và… có lẽ họ sẽ thấy vui lắm nếu khoảnh sân trước mặt họ sạch, họ biết có bàn tay ai đó đã dọn sạch khoảnh sân để họ có chỗ lý tưởng để ngồi. Con nghĩ người khách nào đó ngồi ở chiếc ghế này hoặc đi vòng quanh đây có vui không? Nghĩ tới đó con thấy việc mình làm có ý nghĩa lớn lao biết chừng nào con nhỉ! ”


Vị bề trên ngừng đôi lúc để cùng đệ tử nghe tiếng gió thổi qua các kẽ lá, cũng để cho đệ tử suy ngẫm đôi lúc. Lát sau ngài nói tiếp :


-“Đi tu không phải là học để làm những điều phi thường. Nhưng là để học biết làm những điều tầm thường cách phi thường con à!”


                                                                                    Little Stream

07 tháng 12, 2022

Tản mạn: ĐÃ CÓ NHỮNG BÀI CA...

(Tưởng nhớ cha Tiến Lộc) 

Thuở còn ở quê, lớp giáo lý hàng Chúa Nhật của lũ trẻ chúng tôi là một gian phòng nhỏ đủ cho mười mấy đứa trẻ con quy tụ lại. Chị giáo lý viên trẻ thuở ấy yêu thương chúng tôi vô cùng. Chị vẫn hay dạy cho chúng tôi bao nhiêu điều quý báu, từ những bài học về đức tin nho nhỏ đến những điều mà lũ trẻ chúng tôi mơ màng tự tưởng tượng như thiên đàng, hỏa ngục. Chị cũng dạy cho chúng tôi những bài ca sinh hoạt trong giáo lý. Những bài ca suốt gần 30 năm rồi tôi vẫn nhớ từng câu, từng chữ, từng cử điệu. Những bài ca ấy cùng đi kèm với nội dung của bài giáo lý, nên mỗi lần muốn học bài thì cứ véo von mấy lời ca là bài học hiện về trong đầu mồn một. Tuổi thơ ở họ đạo nghèo của tôi là thế!


Đến lúc tôi trở thành giáo lý viên, tôi lại dùng chính những bài ca mà chị giáo lý viên dạy tôi thuở ấy để dạy lại cho các em. Dạy cả những cử điệu và kèm với những nội dung giáo lý có cùng ý hướng. Các em cũng nô nức học hát và múa theo, để sau đó là những ghi khắc khéo léo, mà mãi đến lúc này, có những em đã có gia đình vẫn nhắn với tôi rằng: “Cám ơn anh lúc đó chia sẻ với tụi em mà đến tận giờ tụi em vẫn nhớ!”




Rời quê hương và họ đạo lên đường đi học ở Sài Gòn, tôi học đôi chút ngón đàn guitar, và điều mà tôi khao khát thực hiện đầu tiên ngay khi biết đàn là đàn và hát những bài ca giáo lý thuở nhỏ được học. Tự cầm đàn, lấy tông rồi tự cất lên theo những nhịp ca khi nhanh khi chậm, khiến tôi mừng vui vô cùng. Từ đó, những giờ lớp giáo lý mà tôi hướng dẫn hay có bóng dáng của chiếc đàn guitar và những bài ca. Với tôi, đó là một trong những công cụ hữu hiệu và năng động để giúp người khác nhớ về Chúa và biết về Chúa. Đơn sơ và mộc mạc thôi nhưng đầy ý nghĩa.


Mãi về sau này, tôi có thời gian tìm hiểu sâu hơn về gốc tích những bài ca thuở ấy. Đó là những sáng tác của những gương mặt thân quen: Tiến Lộc, Quang Uy. Những cuộc lục tìm về các cha trên các trang mạng được tôi thực hiện ráo riết. Một cảm giác thật hào hứng khi tìm thấy một nguồn khởi hứng cho chính mình ngay từ bé xíu và cho đến khi hai thứ tóc như bây giờ. Tôi thực sự quý mến các cha, những người cha bận tâm về thanh thiếu niên – tương lai của Giáo hội. Tôi ấn tượng khi thấy cha Tiến Lộc và cha Quang Uy cùng song tấu trực tiếp trên sân khấu với phong thái tự tin và vui tươi, cả hội trường vỗ tay theo nhịp đàn và lời hát của các cha. Một lần khác, tôi được dự một chương trình văn nghệ đặc biệt tại 38 Kỳ Đồng. Tôi được tận mắt chứng kiến một cha Tiến Lộc vui tươi, và ngài đã điều khiển dàn nhạc chơi bài “Gặp Gỡ Đức Kitô” cho cả cộng đoàn cùng hát. Cha điều khiển dàn nhạc thật vui, lúc thì cha quay xuống giữ nhịp cho cộng đoàn hát, rồi cha lại quay lên dàn nhạc. Cứ thế, cả nhà thờ đều hòa vang bài “Gặp Gỡ Đức Kitô” thật ấm cúng.


Hôm nay, những bài ca sinh hoạt đã được truyền thông trên các phương tiện nghe nhìn chứ không còn ghi chép và học thuộc lòng như xưa, nhưng tôi muốn tự mình vận dụng trí nhớ và đàn hát với những lời ca mình còn nhớ, hát bằng cả con người và cảm xúc, hát về những bài giáo lý được học. Chợt đâu đang khi hát lại thấy xúc động vì… người truyền cảm hứng thuở ấy đã được Chúa gọi về.


Tạ ơn Chúa đã ban tặng một vị linh mục dõi sát gót thanh thiếu niên trong đời mục tử của ngài. Cám ơn cha đã truyền cho con nhiều cảm hứng trên hành trình nói về Chúa cho người khác, nhất là các bạn thanh thiếu niên. Xin chúc cha một hành trình mới đầy hy vọng và niềm vui.


                                                                                        Little Stream

30 tháng 11, 2022

Truyện ngắn: GHE HÀNG BÔNG

 1.

-“Ê! Xuống bưng hai bình bông lên!”


Má ngồi chồm hổm giữa lòng ghe, giữa hai hàng bông vạn thọ vàng nghế. Thằng Thiện ghét cái mùi hăng hắc phát ra từ cái loài bông đó. Mỗi khi nó tới gần hai bình bông vạn thọ mà má hay đặt trước hai góc cột nhà mỗi dịp tết, là nó nhảy mũi liên tục. Nhưng sở thích bông vạn thọ của má đâu dễ dứt được. Với má, nó là loài bông kỷ niệm khó quên. Thành thử tết năm nào má cũng mua đúng hai chậu đẹp nhứt, bắt mắt nhứt chưng trước cửa nhà.


Sà người ôm hai bình bông tay má chuyền từ mũi ghe lên, thằng Thiện cặp vô hai hông hai bên để mấy cái bông mắc ôn mắc dịch đừng chổi vô cái lỗ mũi của nó. Má cười khẽ khàng nói kháy:


-“Trời! Dòng cái thứ đàn ông con trai gì cơ bắp cuồn cuộn mà sợ mấy cái bông!”


Thằng Thiện giận lẫy trả lời:


-“Má kỳ quá! Người ta mần từ sáng tới giờ hổng khen mà còn ở đó dè biểu!”


Má như hổng nghe lời nó, quay xuống nói chuyện với cô chủ hàng bông tỉnh bơ:


-“Rồi cưng lên trên trển hay xuống miệt Bà Tồn?”


Cô chủ vừa đưa tay sửa lại mấy bình bông, không quên ngó mặt má trả lời:


-“Dạ chắc xuống miệt Bà Tồn chế ơi! Dưới đó bán đặng hơn khúc trên! Để bán xong dưới miệt em quầy ngược lên trên trển cũng vừa kịp tết. Nay mới hai lăm chớ nhiêu!”


Má hỏi tiếp:


-“Ờ! Tranh thủ về nhà ăn tết với xấp nhỏ! Chắc nó trông! Mà của chế hết bao nhiêu?”


Cô chủ hàng bông trả lời nhẹ nhàng:


-“Chỗ chị em! Chế cho em giá vốn thôi! Ba chục ngàn nghen chế!”


Má nhìn cô chủ cười tươi:


-“Cái con này! Làm như giàu có lắm không bằng bày đặt!”


Rồi má dúi vô túi cô chủ trẻ năm chục ngàn, rồi bước lên bờ, cô chủ hàng bông cám ơn má rồi lui ghe. Tiếng máy ghe “Tạch! Tạch! Tạch!” đều đều rồi nhỏ dần.




2.

Má đâu chỉ thương mỗi cô chủ ghe hàng bông đó, mà hễ thấy ai bán ghe hàng bông má cũng thương quá trời. Ngoắc vô nói chuyện như quen nhau từ mấy kiếp trước hổng bằng. Hễ chủ ghe là đàn ông thì má hỏi chuyện vợ con. Hễ là mấy bà thì má hỏi chuyện chồng con. Ai chưa chồng con thì hỏi chuyện cha mẹ. Ai mất cha mẹ mà chưa lập gia đình thì hỏi chuyện anh chị em. Còn ai ở mình ên thì má chọc:


-“Mày bán ghe! Lên bờ ở với tao!”


Nhiều hôm chủ hàng bông là cậu thanh niên trẻ măng cười ngượng ngùng trước lối chọc của má, ảnh gãi đầu gãi tai hổng biết trả lời làm sao, má biểu:


-“Tao biểu lên ở làm con nuôi của tao, chớ biểu làm chồng tao đâu mà mắc cỡ. Ngữ cỡ mày mấy đứa kêu tao bằng má rồi con.”


Nói xong má cười nắc nẻ. Vậy là anh ta đỡ ngượng ngùng trước lời chọc của má. Từ nhà dòm ra, thấy má ngồi chồm hổm trước mũi ghe mà thấy thương quá chừng. Có hôm ngồi nói chuyện nguyên buổi mà quên mua bông ủng hộ, mà mấy người bán hàng cũng mắc cỡ hổng dám nhắc. Thấy má đang đi vô tay không, ghe hàng bông đã đi rồi, thằng Thiện đứng trước sân chọc má:


-“Í trời đất ơi! Ngồi tám nguyên buổi mà hổng mua gì ủng hộ. Gặp mười người như má chắc người ta lỗ chết!”


Má đứng lại như nhớ mình quên mua tiếp người ta, lấy hai tay vỗ cái “đép!”, biểu:


-“Trời! Tao quên mất tiêu! Thiệt! Mà… cái con bán nó dễ thương quá! Y như… tao hồi đó!”


 


3.

Kể tới đây chắc ai cũng hiểu vì sao má hay thương mấy người bán bông trên ghe, vì… đó là nghề của má trước khi ba cưới má. Từ hồi ba má cưới nhau thì cả hai lên bờ cất nhà rồi sinh ra thằng Thiện. Má kể má bán bông trên ghe chắc có gần hai chục năm. Từ hồi năm tuổi đã đi ghe hàng bông với ba má là ông bà ngoại của thằng Thiện. Má lớn lên thì tiếp nghề cha mẹ để lại. Ăn, ngủ trên ghe suốt mấy chục năm nên… má nhớ.


Thằng Thiện được sinh ra ở trên bờ nên không biết cảm giác ở trên ghe như thế nào ngoài lời kể lại của má. Má biểu ở trên ghe sướng lắm! Được đi đây đi đó thoải mái, chẳng ai giữ chân làm mình bận bịu. Với lại ở gần sông nên cái gì cũng tiện. Ăn uống dễ dàng vì muốn ăn gì thì tấp chỗ bán thứ đó mà mua. Tới cơn ngủ thì cứ tấp ghe vô bụi ô-rô tạm vài tiếng rồi đi tiếp. Thêm mấy cái bông vạn thọ hồi thời ông bà ngoại với má bán thì chạy hàng dữ lắm! Tại hồi xưa bông hiếm, chỉ mỗi tết người ta mới chưng nên cứ lên vựa lấy bao nhiêu chất cho đầy ghe, chạy vòng vòng vài ngày đã gần hết. Trong năm cũng chạy ghe đi bán nhưng mua bán hổng chạy, vì người ta chỉ mua vào dịp rằm hay dịp cúng kiếng, nên trong năm thì lấy ít bông hơn, còn tết thì cứ chất đầy ghe.


Thiện nghe má kể mà tít mắt thích thú vì chưa có dịp ngồi ghe như má. Nó cũng muốn có ngày ngồi ghe đi bán bông như má. Nghe nó nói lên mơ ước, má rầy:


-“Cái thằng khùng! Bán cực chết mẹ chớ sung sướng gì mà đòi đi!”


Thiện cãi lại:


-“Má mới biểu bán bông trên ghe sướng lắm! Giờ lại nói khổ! Ngược đời quá!”


Má ậm ờ phân bua:


-“Ờ! Thì sướng với mấy người quen ở trên ghe! Còn mày từ hồi sinh ra tới giờ có ở trên ghe ngày nào mà khoái. Say sóng ói tới mật xanh. Rồi mắc vệ sinh có dám…”


Nói tới chuyện vệ sinh thằng Thiện phủi tay “Thôi! Thôi! Nghe ghê quá! Hổng đi ghe nữa đâu!”. Má biết thằng Thiện kỹ tính, nó kỹ và sạch như ba nó, nên nêu vài lý do như vậy là đủ khiến nó ngại ngùng. Má nhìn thằng con năm nay cũng đã lớn, sắp lên Sài Gòn học chứ ít ỏi gì. Nhìn đăm đăm mà cười như thể hồn má để chỗ nào ấy.


4.

Mà cái chuyện đi ghe hàng bông là cực khổ hình như có thiệt. Nghe kể hồi đó ba bắt má phải bán ghe mà lên bờ. Hồi mới quen ba biểu:


-“Em thương tui thì hai đứa mình lên bờ. Dưới ghe lênh đênh tối ngày cực lắm! Hơn nữa phận gái đi lênh đênh tui nghĩ mà tội cho em lắm!”


Má chẳng bao giờ kể những khổ cực của cái thời sống trên ghe vì má chỉ muốn giữ những gì đẹp nhứt thôi. Thiện chỉ biết những khổ cực ấy khi nghe ba kể lại lúc ba còn sống. Bịnh tật hổng có ai hay biết, một mình tự ngâm khăn đắp trán hạ sốt, rồi hổng bớt thì ghé thầy Ba, thầy Tư ngoài chợ bốc ít thuốc để sắc uống. Thuốc cũng tự nấu, hổng nhai cơm được thì tự nấu cháo mà nuốt. Để nồi cháo mệt quá ngủ quên thì húp được khúc trên, khúc bị khét thì cạo cho tụi cá dưới sông ăn.


Rồi mấy khi bị người ta chọc ghẹo, hăm he. Nhất là khi cập ghe kế mấy ghe hàng khác. Dù ghe người ta đâu có bán bông như má, nhưng họ cũng tị nạnh mà đuổi má đi. Nhiều hôm bị mất mấy bình bông oan uổng chỉ vì lui ghe hổng kịp, họ thọt tay chụp mấy bình bông biểu: “Cái này là của đền vì tấp ghe hổng xin phép!” Má lui ghe bụng tức quá trời, biểu: “Quỷ ma gì đâu á trời! Cái chỗ có của riêng ai mà dành!”. Thiện nhớ ba biểu: “Tao thấy bả cực quá nên bắt bả lên bờ đó! Đó là chưa kể những lúc mưa bão bất ngờ, trên ghe lạnh kinh khủng mà biết núp chỗ nào. Nửa đêm vừa tát nước vô ghe vừa trụ ghe qua cơn mưa bão. Kiểu đó mà lật ghe một cái là chầu hà bá hổng chừng!”


Mà cũng bởi khó khăn đó mà má chỉ bán bông vạn thọ. Mấy lần người ta làm khó dễ, họ tràn qua ghe giẫm đạp làm mấy thứ bông kia nát bét, chỉ có vạn thọ vẫn nghển cổ tự hào vì chúng sống dai. Bán trễ xíu cũng hổng lỗ lã bao nhiêu. Người ta có vùi dập thì nó cũng dễ sống. Má biểu: “Chắc vì là thứ bông cúng nên nó rẻ! Mà hồi xưa hổng biết sao cũng mắc lắm à nghen! Còn giờ thấy người ta ít mua vạn thọ lắm!”


Má cũng kể cho ba nghe nhiều lúc thèm bờ, muốn lên nhà ở. Hồi nẫm căn nhà ông bà ngoại để lại vẫn còn, nhưng má kể cứ bước vô nhà là nhớ ông bà ngoại. Tấm hình ông bà ngoại để trên bàn thờ cười tươi mà nhỏ con khóc quá trời. Má sợ cái cảm giác mồ côi một mình. Mồ côi ở trên ghe hễ buồn thì chạy chỗ này chỗ kia, kệ nó! Lênh đênh mà đỡ nhớ. Còn ở trong nhà nhớ biết chạy đi đâu. Ba biểu lúc đó má than: “Đất cứng ngắc! Chắc chỉ có sông đủ mềm để chứa cái phận mồ côi của mình thôi!” Ba khóc ròng vì thương má.


5.

Má quầy vô nhà thấy hai bình bông thằng Thiện để ngay trước sân sát bàn thờ Thiên, còn nó đang cặm cụi gọt mấy cái gốc kiệu cho má chuẩn bị làm dưa ăn với bánh tét mấy ngày tết. Má để hai bình bông vào đúng vị trí hai góc cột như mọi năm, miệng hí hới nhắc thằng con:


-“Ê! Gọt cho sạch gốc nhen mậy! Mần kỹ làm dưa ăn cho nó ngon!”


 Thiện ngó đăm đăm thau kiệu, mặt ủ dột như thể mỏi mệt với mấy củ kiệu nhỏ xíu mà nó tỉ mẫn làm từ sáng tới trưa. Chợt tiếng điện thoại trong túi nó kêu vài tiếng, nó mở điện thoại đọc chăm chú với khuôn mặt sáng rỡ. Bỏ lại thau kiệu nó chạy lại gần má đang với tay lau lư hương trên bàn thờ.


-“Má ơi! Má ồ! Má…!”


Tiếng nó cố làm ra nhão nhoẹt, má biết nó muốn xin gì với giọng điệu đó. Má trả lời sẵn giọng:


-“Cái gì? Muốn đi phải hông?”


Thiện gãi đầu lúng túng. Nghĩ thương thằng con từ sáng tới giờ gọt kiệu liệt tay, má húng hắn:


-“Ừa! Đi đi! Nhớ chiều về ăn cơm đó! Má đợi!”


Trong vòng ba nốt nhạc thì thằng Thiện đã sẵn sàng lên xe chạy đi. Tầm năm giờ chiều nó về. Má đang dở tay dọn mâm cơm có mấy khứa cá lóc kho tiêu và nồi canh chua bông so đũa, món mà Thiện thích. Hai má con vừa ăn cơm chiều vừa nói chuyện với nhau. Những câu chuyện cuối năm vui buồn lẫn lộn.


-“Tết là thêm tuổi, lớn rồi nghen mậy! Lo mà học hành rồi học đại học, cưới vợ sanh con đặng má an tâm.”


Thiện hỏi má:


-“Mai mốt con mần có tiền con sửa lại cái nhà cho tươm tất rồi hễ còn dư tiền con đưa má đi du lịch hén!”


Má biểu:


-“Thôi! Tự lo thân cho con là má mừng! Má tự lo được! Mà…”


Má ậm ờ, thằng con hỏi thêm: “Mà gì má?”


-“Mai mốt bây lập gia đình rồi… chắc… má xuống ghe đi bán bông nữa quá!”


Thằng con giật mình trước câu nói của má, gằn hỏi:


-“Gì vậy má! Già rồi hổng nghỉ ngơi còn buôn bán gì nữa?”


Má nuốt miếng cơm rồi nhìn thằng con biểu:


-“Thì bây có vợ có con rồi, má ở một mình. Má xuống ghe đi đây đó cho… đỡ nhớ sông, đỡ… nhớ bây.”


Thằng con nín thinh hông biết nói làm sao. Má vẫn tỉnh bơ gắp cá vô chén nó, rồi biểu: “Thôi! Ăn đi con!”


                                                                                        Little Stream

27 tháng 11, 2022

Suy tư: CÁNH CỬA VÀ THỜI GIAN

 (Chút tản mạn vào những ngày cuối năm)


Tôi đã đứng đây như một chứng nhân về hiện tượng của những sự vật trong dòng thời gian, dù tôi chẳng hiểu sự tình bên trong những hiện tượng ấy. Thời gian trôi qua, mọi sự vật và con người sống quanh tôi cũng biến chuyển. Lạ lắm! Tạo Hóa đã ban cho tôi có khả năng nhìn thấy hiện tượng hai chiều nơi những sự vật khác nhau cùng một lúc.


Tôi có thể thấy những chú chuột nhắt phập phồng chờ mẹ về, đang khi chú mèo hung dữ đang đứng bên kia cánh cửa cố dùng những móng nhọn sắc để giật cánh cửa. Tôi cũng thấy những chú kiến bên này cửa đang khi ì ạch cõng những hạt cơm trên lưng, vẫn ngoái lại chờ đồng đội của mình, đang cố vượt qua khe cửa hẹp, để nối đuôi đi theo hàng.


Tôi cũng muốn kể cho bạn nghe những hiện tượng mà tôi có dịp chứng kiến nơi con người và những điều ấy khiến tôi suy nghĩ mãi cũng chẳng hiểu được.




Tiếng xe thắng dứt khoát đậu lại trước cửa nhà. Những thành viên trong nhà nhốn nháo báo nhau: “Về rồi! Về rồi!” Rồi mọi người đổ xô ra mở cửa với vẻ mặt háo hức. Bên kia cánh cửa là cặp vợ chồng trẻ đang bế đứa con vừa chào đời, cả hai nhìn nhau mỉm cười hạnh phúc. Cửa mở ra, hiện tượng khóc cười lẫn lộn.


Nắm tay vặn cửa mở ra vội vàng, tôi thấy khuôn mặt của người phụ nữ trung niên đầy lo lắng. Bên kia là người đàn ông đang dắt đứa nhỏ chừng hai hay ba tuổi, đứa bé đang khóc mếu máo với vết trầy xước trên tay và mặt.


Cảm giác bị giật rất mạnh, tôi thấy người đàn ông đang cố níu tay người phụ nữ lại, nhưng người phụ nữ cố giật tay ra mà với tới nấm cửa vặn thật mạnh và nhanh. Đứa bé líu ríu chạy theo, nước mắt đầm đìa, miệng năn nỉ thảm thiết: “Đừng bỏ con mà! Đừng!”, nhưng người phụ nữ như có sự thôi thúc mãnh liệt nào đó, dù người đàn ông cố giữ cũng không được. Cửa mở toang và để như vậy. Tôi một mặt nhìn vách tường xám lạnh, một mặt nhìn người đàn ông đang ôm đứa bé vào lòng, sụt sùi.


Cũng một mặt áp tường, cửa để mở toang hoác. Người ra vào liên tục. Đèn sáng choang. Mùi hương xông lên nồng nặc. Tiếng khóc thảm thiết. Ông cụ cao niên trong nhà đã được đặt trong quan tài, đứa con trai và đứa cháu khóc ầm ĩ. Những người hàng xóm vừa bịn rịn vừa cầu kinh cho ông. Tầm ba ngày, họ đưa quan tài của ông đi đâu đó tôi chẳng biết.


Một người phụ nữ đứng trước cửa bấm chuông. Một cậu thanh niên đẹp trai ra mở cửa với thái độ vội vàng vì bộ phim còn dở trên sóng truyền hình. “Cho hỏi! Đây có phải nhà ông…?”. “Dạ! Đúng rồi!” cậu thanh niên lịch sự đáp lại. Rồi người phụ nữ được mời vào nhà, người đàn ông từ dưới bếp bước lên một tay còn chùi vào tạp dề đang đeo trước mình, tay kia cầm ly nước cho khách. “Choảng!” Tiếng ly bể.


“Hú! Hú! Hú!” Tiếng còi cứu thương kéo dài. Cậu thanh niên chạy ra cửa gấp gáp chỉ ngón tay vào bên trong, nhân viên cứu thương chạy vào với tấm băng ca. Bên trong nhà, người đàn ông nằm trên nền gạch bất tỉnh. Người phụ nữ khóc lóc thảm thiết. Băng ca đặt người đàn ông được cáng ra xe, người phụ nữ và cậu thanh niên chạy theo lên xe. Cửa mở toang hoác, một bên đối diện tường xám, một bên căn nhà trống hoác, đồ đạc lộn xộn.


Khi tôi kể lại những hiện tượng này, là lúc ngọn lửa đã sắp ngoạm hết người tôi. Chỉ còn nấm đấm cửa bằng kim loại nên vẫn trơ trơ dưới sức nóng của lò đốt. Tôi đã trở nên cũ kỹ và mục nát sau mấy mươi năm phục vụ. Tôi chợt nghĩ về cuộc đời của mình lẫn cuộc đời của những sự vật, những con người mà tôi được chứng kiến. Thực sự khó hiểu về những điều ấy. Nơi những trạng thái trái ngược của mèo và chuột; nơi những sự mong chờ đồng đội của những chú kiến. Còn con người thì lại càng khó hiểu hơn hết vì những biến chuyển vui-buồn, hợp-tan, giận-hòa của họ. Xoành xoạch!


Nghĩa là sao nhỉ? Tôi chỉ thấy vậy thôi! Mà… hình như suốt mấy mươi năm chứng kiến, tôi thấy họ khóc nhiều hơn cười thì phải!


                                                                                    Little Stream

19 tháng 11, 2022

Tản mạn: BẢNG ĐEN PHẤN TRẮNG

  Bảng đen và phấn trắng là hai hình ảnh mà tôi được gợi nhắc cách đặc biệt trong ngày lễ nhớ ơn quý Thầy Cô.


Có lẽ, các em học sinh ngày nay khi được sinh ra trong đầy đủ tiện nghi thì không còn cơ hội biết về chiếc bảng lóa mắt và viên phấn đầy bụi của ngày xưa. Ngày nay, các em sẽ quen hơn với chiếc bảng hiện đại, những chiếc bảng chuyên dụng cho bút lông nhẹ nhàng và thanh thoát hơn, hay những chiếc bảng là chính màn hình chiếu máy tính lên khung chuyên dụng. Tất cả những hiện đại này đã đóng góp tuyệt vời cho bến bờ tri thức trong thời đại mới. Và… có lẽ vì lý do ấy mà những hình ảnh ví von về tấm bảng đen và viên phấn trắng dần trôi vào quá khứ, hay chỉ xuất hiện đơn thuần như những mỹ từ đẹp và hình ảnh gợi lên cảm xúc. Tuy vậy, điều tôi muốn nói trong bài viết này không chỉ là những mỹ từ đẹp, nhưng tôi muốn khẳng định rằng, trong quá khứ đã từng có những chiếc bảng đen, viên phấn trắng và cả hy sinh của quý Thầy Cô thuở ấy.


Tôi hiểu rằng những lời ca: “khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi…” là có thật. Mà cái thật ấy không đẹp như bài hát với tiết điệu nhịp nhàng, thay vào đó là bụi bay tá lả. Ngồi cạnh khung cửa sổ có nắng dọi xuyên những khung sắt, bụi phấn bay hết cả gian lớp. Mỗi lần thầy cô viết thì phải lấy cánh tay còn lại chắn mũi và miệng lại. Lũ trò ngồi xa xa ngắm bụi bay tưởng đang ở trên thiên đàng có khói bay la đà.




Cứ thế, chúng tôi được nuôi lớn về trí khôn từng ngày. Càng khôn ra thì cũng hiểu hơn rằng thứ bụi phấn ấy được làm từ một loại bột sét có chứa canxi cacbonat. Hậu quả mà nó gây ra là tích tụ lâu ngày sẽ gây ra các vấn đề như: Viêm mũi dị ứng, viêm xoang, viêm phế quản, suyễn…  và khi bị viêm nhiễm lâu, sức đề kháng của cơ quan hô hấp sẽ bị giảm, điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn lao tấn công gây nguy cơ mắc lao phổi sẽ cao hơn. Càng sợ điều này thì lũ trò càng hiểu chẳng có thầy cô nào thuở đó dạy tụi mình dưới hai chục năm. Có thầy cô lớn tuổi đã dạy từ thế hệ cha mẹ, đến thế hệ con cái và thậm chí là thế hệ cháu chắt, họ vẫn trung thành trong nghề cho tới khi không còn khả năng dạy học được nữa.


Đó là sự thật để mỗi độ nhìn bước thành công trong cuộc đời mình, hay mỗi độ hát lại câu hát “khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi…” thì lũ trò năm xưa, nay đầu đã hai thứ tóc, lại muốn khóc mếu khóc máo. Tự ngẫm sao thầy cô thương tụi mình như vậy, thương đến độ hy sinh cả sức khỏe của chính họ để các trò có tương lai sáng rạng. Mớ tiền lương ít ỏi của giáo viên dù có lãnh trong hai chục năm trời chắc cũng không đủ để chữa những căn bệnh về già, mà một phần bệnh tật tôi đoán là do bụi phấn gây ra. Có lẽ ngày hôm nay, khi các em học trò của thời đại mới hát câu hát “…bụi phấn rơi rơi…” sẽ có khả năng hiểu sâu xa và nhiều cảm xúc hơn chúng tôi, còn chúng tôi mang ơn thầy cô đơn giản bởi cái sự đánh đổi “liều mình” cách rõ ràng như thế.


Lũ trò chúng tôi chỉ ngẫm ra chuyện bảng đen phấn trắng khi đã khôn lớn và chỉ hiểu vấn đề khi lòng biết ơn có lúc đã muộn màng. Ngẫm lại mà xót xa bởi mỗi lần chuyển lên lớp mới thì thầy cô lại chúc điều này điều kia và khóc. Thầy thì đỏ hoe mắt, cô thì thút thít nói tiếng được tiếng mất. Lũ trò bên dưới cầm bằng khen với mấy cuốn sổ mới được lãnh thưởng cười tí toét, có đứa nói nhỏ: “Trời! Sao ông thầy bà cô nào cũng biết đóng cải lương. Muốn chửi là chửi. Muốn cho “hột dzịt” (không điểm) là cho. Muốn đánh là đánh. Muốn mời phụ huynh là mời…”. Một tràng “muốn” của cậu trò nhỏ, thêm có đứa chen vô: “Muốn khóc là khóc hà! Thầy cô đóng cải lương giỏi thiệt luôn!”


Nghĩ lại suy nghĩ chưa thấu đáo thuở ấy, giờ ray rứt vô kể… Mà muốn xin lỗi hay cám ơn thì các vị… ra thiên cổ hết rồi. Nhưng nhớ lại câu nói mà thầy cô nào cũng nói: “Tụi con ráng học đàng hoàng, mai mốt thành công trong cuộc sống mà giúp ích cho đất nước, xã hội, gia đình và bản thân tụi con”, mấy đứa già đầu nhấp miếng cà phê vỉa hè rồi tự nhủ với nhau: “Chắc thầy cô hổng chấp nhứt mấy đứa tụi mình đâu. Thấy tụi mình như ngày hôm nay chắc thầy cô vui rồi!”


                                                                                    Little Stream

18 tháng 11, 2022

Tản mạn: THẦY TÔI

 Điệp khúc mở đầu câu chuyện bằng “Thầy tôi…” được vị giáo sư và các học viên nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong suốt khóa học. Có lẽ các học viên đã thích cụm từ dễ thương được cất lên từ môi vị giáo sư lớn tuổi, dù đã cao niên nhưng vẫn khỏe mạnh và hài hước. Trong lớp chúng tôi vẫn gọi thầy bằng cụ, vì tiếng gọi ấy còn chất chứa cả sự kính trọng với bậc lớn tuổi. Cụ nói câu ấy dễ thương quá chừng, mà các học viên chúng tôi học theo câu ấy cũng dễ thương không kém. Tự nhiên nói câu gì có nội dung như: “Thầy tôi nói thế này…”, “Thầy tôi là… từng dạy…”, “Thầy tôi…” chợt lũ trò vừa cười tươi vừa gật gù tâm đắc, y như bộ dạng của cụ khi nhắc tới những vị thầy của mình. Đương nhiên, tôi xin loại trừ những kiểu cười châm biếm hay phê phán của một số người ra khỏi những suy tư nghiêm túc này.


Ngẫm về tiếng nói “thầy tôi” của cụ, tôi nhận ra ba điều. Thứ nhất, cụ công nhận công ơn những bậc tiền bối có công dạy dỗ và huấn luyện cho cụ có được hôm nay. Sự công nhận cũng là thái độ ghi ơn khi cụ nói: “Sách vở của thầy tôi vẫn còn giữ ở nhà tôi.” Cậu học trò năm xưa vẫn nhớ về công ơn cao lớn ấy dù “thầy tôi” đã ra thiên cổ hết rồi. Vì sao lại cất công giữ lại mớ sách vàng ố và chữ in nhòe nhoẹt với tuổi đời hơn mấy chục năm, xem ra kiến thức ngày nay đã tân tiến hơn nhiều? Có lẽ nơi mỗi tờ giấy và chữ in thô sơ là những kỷ niệm rất đẹp, để mỗi khi thấy sách vở ấy là nhớ đến “thầy tôi”, để mỗi lần nhắc tới “thầy tôi” thì hiểu rằng kiến thức của các vị vẫn hằn sâu không chỉ sách vở còn được lưu giữ, nhưng còn là chính con người và kiến thức của cụ ngày hôm nay.




Thứ đến, cụ muốn nói lên cái tâm của những bậc hiền nhân đi trước rằng các vị sẵn sàng mở ngỏ để hậu thế phê bình. Phê bình ở đây được hiểu là nhận ra mặt tích cực lẫn tiêu cực, mặt đầy mặt khuyết, đương thời và lỗi thời…. để từ đó hậu thế bổ túc vào mớ kiến thức mà mỗi thế hệ cần dùng đến. Lối phê bình của cụ vừa sâu sắc nhưng cũng không kém phần vui tươi. Biết rằng cách dẫn tư tưởng sẽ khó hiểu, cụ chọn những mẫu truyện để dẫn ngầm tư tưởng, để sau tràng cười khoái chí là bài học sâu trong lòng mỗi học viên.


Như thế, cụ không toàn tập “tâng bốc” các vị thầy của mình, mà thực tế là khen ngợi cũng có và phê bình cũng có. Với lối nói của một tri thức gốc Bắc cựu trào lai chút hóm hỉnh miền Nam, cụ dẫn vào cách nhẹ nhàng: “Thầy tôi nói thế này… tôi đồng ý, nhưng cực chẳng đã tôi mới nói thế này…” đó là câu dẫn vào phê bình của cụ. Nhẹ nhàng nhưng đầy đủ trên nhiều phương diện, vận dụng tư tưởng từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây có đủ. Như thế, cụ dần cung cấp một bình diện kiến thức tạm thời cho học viên chúng tôi tự nghiên cứu sâu xa.


Thứ ba, nghĩ xa hơn thì chính vì cái tâm của các hiền nhân xưa dám để người khác “đạp lên” mà đứng cao hơn. Họ khiêm tốn bởi không dám khẳng định điều họ biết là Chân Lý trọn vẹn, là tất cả của vũ trụ nhân sinh. Họ ý thức một mình họ không lấp đầy được khát vọng tri thức của nhân loại trong mọi thời đại, thành thử họ biến điều họ đóng góp thành mớ tài sản chung cho mọi người thay vì dè sẻn, ki bo cho riêng mình.


Kết thúc khóa học cụ nhắn nhủ với lớp: “Xem như chưa học gì cả. Xem như tôi chưa nói gì với các bạn cả!”, “Điều tôi nói không là tất cả và các bạn có quyền phê bình những điều ấy miễn sao nó mưu ích cho kiến thức của các bạn.” Câu kết quá ư là… khó kết luận, nhưng để lại trong đầu và trong tim học trò nhiều điều để suy nghĩ.


Chợt thấy các bạn học viên cười hạnh phúc khi nhắc về “thầy tôi”, cũng có bạn nghiêm túc trong tranh luận cũng khởi đầu bằng “thầy tôi nói rằng…”, tôi cũng khao khát mỗi nụ cười lẫn sự nghiêm túc ấy của các bạn tôi cũng có đủ mọi yếu tố hài hước lẫn khiêm tốn để người khác phê bình tư tưởng của mình như cụ. Cũng tự nghĩ rằng ai yêu cầu kể ra một vài mẫu thước cho kiến thức đến lúc này, chắc các học viên sẽ bảo rằng: “Giống thầy tôi!”, mà chắc chắn cụ sẽ chối phăng cái tư tưởng kiêu ngạo ấy, mà dẫn chúng tôi đến với một Thầy khác, đó là vị Thầy, vị mà cụ nhắc đi nhắc lại rất nhiều trong bài giảng, đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” (x. Ga 4,6a)


Little Stream

01 tháng 11, 2022

Suy tư: QUAN TÀI

 Chiếc quan tài chỉ là vật vô tri vô giác, nhưng chính nó lại gợi lên bao nhiêu điều để con người phải suy nghĩ. Chính những mảnh ván với kích thước khác nhau làm dấy lên những cảm giác thân thương, đáng sợ và nhất là nhắc nhở kẻ ở lại về lối sống của mình.


Thân thương bởi chiếc quan tài giúp khuất lấp những thân xác không còn ích lợi và năng động trong cuộc sống thế trần này. Cần được khuất lấp bởi một khi trút hơi thở thì thân xác chóng vội tàn phai và biến sắc chỉ trong vài giờ ngắn ngủi. Tôi vẫn nhớ cảm giác giật mình và một chút rợn rùng khi thấy lũ kiến bò lên cánh tay và khuôn mặt của người thân mình đang khi chờ tới lúc tẫn liệm. Sao khác quá giữa một con người từng hồng hào, năng động và biết tự bảo vệ mình trước mọi tấn công. Còn khi đã chết thì bầy kiến nhỏ nhởn nhơ mà cái xác chẳng chút động đậy. Vài giờ thì thân thể lạnh lẽo, da vẻ tái nhợt và dễ khiến người ta hãi sợ. Chiếc quan tài khuất lấp đi những khoảng dễ sợ ấy để chỉ chừa ra cái dễ thương, là khuôn mặt đã được trang điểm cho hồng hào, là đôi tay được mang chiếc găng trắng thật sang trọng, là đôi mắt nhắm lại nhưng viền mắt vẫn được vẽ cho sinh động.





Đáng sợ bởi chiếc quan tài là vạch ngăn lớn lao giữa kẻ sống lẫn người chết. Vạch ngăn ấy hiển hiện chỉ qua tấm ván mỏng, nhưng cũng đồng nghĩa rằng người nằm trong những tấm ván chẳng bao giờ bước ra với những người bên ngoài nữa. Mặc cho người thân thương tiếc, kêu khóc, gào thét nhưng sự đáp lại chỉ là im lặng. Con người với tâm lý bình thường hay sợ vạch ngăn này vì nơi đó đầy dẫy những tiếc nuối khi còn quá nhiều hoài bão của kẻ nằm trong quan tài chưa làm được khi còn sống, còn quá nhiều những lỗi lầm mà kẻ còn sống đã gây ra cho kẻ nằm trong kia mà chẳng còn cơ hội nói lời xin lỗi, còn biết bao nhiêu tâm tư và tình cảm đáng đã phải được thổ lộ cho kỳ hết nhưng nay đã chỉ còn ghi lạnh lùng trên những dòng di chúc, di thư, di nguyện.


Chính những nỗi thân thương và đáng sợ ấy mà người ở lại kiếp sống lữ hành này được nhắc nhớ bao nhiêu điều. Ở đất nước Hàn Quốc có một trải nghiệm khá thú vị được gọi là ‘dịch vụ ‘chết thử’’. Đến với dịch vụ này, ‘người tham gia dịch vụ này sẽ được hướng dẫn và xem một đoạn video trước khi được dẫn vào một căn phòng tối, ngồi cạnh quan tài và bắt đầu viết di chúc của mình. Sau đó, họ mặc đồ liệm và được đặt vào trong quan tài. Họ sẽ nằm trong chiếc quan tài tối đen khoảng 10 phút, nghe có vẻ ngắn những đối với những người trải nghiệm dịch vụ này, khoảng thời gian đó như bất tận với họ.’[1] Có lẽ không cần phải đặt vấn đề về chuyện ‘chết thử’ ấy có mang lại cảm giác thật hay ảo, nhưng điều cốt lõi mà dịch vụ ấy mang tới là giúp cho người còn sống biết trân quý cuộc sống hiện tại như một món quà quý báu. Cụ thể với người Ki-tô Hữu, món quà sự sống ấy không tự họ tạo ra được, mà chính Thiên Chúa ban cho.


Nhớ đến những người thân yêu đã qua đời và đang chờ đợi ngày hưởng ánh quang bất tận của Thiên Chúa, tôi cũng được gợi nhắc chính bổn phận và lối sống hiện tại của chính mình, tựa như câu nói: “Khi bạn sinh ra đời, bạn khóc còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn, bạn cười”.

                                                              

✍️Little Stream

📷Moon


[1] https://laodong.vn/the-gioi/han-quoc-trai-nghiem-dich-vu-chet-thu-de-tan-huong-cuoc-song-764374.ldo

31 tháng 10, 2022

Truyện ngắn: THIÊN ĐÀNG TRONG LỜI KỂ

 Ngoại kể về thiên đàng sinh động lắm. Ngoại biểu các thiên thần và thánh ở trên thiên đàng bên cạnh chầu Chúa. Mà thiên đàng thì vui vẻ quá trời quá đất. Thằng cháu nhỏ xíu ngẩn ngơ hỏi:


-“Ủa! mà ở đó có gì dzui dzậy ngoại?”


Ngoài cười rờ đầu thằng cháu, trả lời:


-“Ở trên đó nhà cửa rộng lắm! Chứa hết người ở cái thế gian này mà vẫn còn dư chỗ. Trên đó có các thiên thần bay qua bay lại, có các thánh đàn ca múa hát cho Chúa nghe tối ngày. Yến tiệc suốt ngày linh đình hổng ngớt.”




Thằng nhỏ nghe xong hỏi ngoại:


-“Ủa! Dzậy ở trển Chúa với các thánh hổng ngủ hả ngoại?”


Ngoại cũng giật mình chậc lưỡi


-“Ờ hén! Mà… Chắc hổng ngủ!”


Rồi ngoại giả lả:


-“Mà… làm thánh thì ngủ làm chi! Ngắm Chúa sướng thấy mồ! Khỏi ngủ!”


Hẳn khi nghe kể lại mẫu tưởng tượng trên chắc nhiều người sẽ bật cười vì nét ngây ngô quá đỗi trong nội dung được truyền tải. Mà cũng không ít người phê phán: “Trời! Dạy cháu mà dạy vậy chắc hỏng bét! Đức tin chắc loạn hết!”


Đứa cháu khờ khạo năm nào nay lớn rồi, được học biết nhiều điều, được nghe giải thích cụ thể về những hạn từ “thiên đàng”, “Chúa”, “các thánh”… Những điều ấy rất khác, khác hẳn 180 độ so với tưởng tượng của ngoại. Nhưng… đứa cháu không coi thường lời kể của ngoại.


Chính lời kể đơn sơ, mộc mạc ấy xui khiến nó có ao ước từ bé: “Dzậy mai mốt con muốn ở thiên đàng, muốn đàn hát dzới các thánh để Chúa nghe thỏa thích luôn!”. Rồi có ngày trên đường đi tham dự Thánh Lễ trở về, nó tự hỏi: “Mình phải làm gì để được ở trên thiên đàng? Được ở với Chúa và và các thánh?” Và kết quả là bây giờ thằng cháu của ngoại chọn cho mình ơn gọi dâng hiến.


Chỉ khác là giờ đây cháu không còn tin sái cổ cái chuyện thiên thần bay qua lại hay chuyện các thánh đàn hát và yến tiệc suốt ngày, nhưng cháu rút tỉa từ lời kể mộc mạc ấy chính niềm vui đích thực khi được cận kề Thiên Chúa khi phấn đấu sống trót đời này cho lý tưởng Nước Trời, như gương các thánh đã sống ở trần gian này.


Mà cũng có những lúc học hành mỏi mệt, suy ngẫm nhiều thứ khiến đầu óc lung tung, hệ thống quá nhiều khiến đầu óc ra khô ráp, đứa cháu lại muốn nhớ đến lời kể của ngoại, muốn tìm an ủi nơi niềm vui ngây ngô khi có Chúa ngự, nơi các thiên thần bay tá lả, nơi các thánh đàn hát. Chỉ là chút an ủi thoảng qua. Viễn vông mà cho hy vọng nhiều lắm!


                                                                                        Little Stream


Ảnh trong bài: Rome, Italy – March 11, 2016: Rome – The fresco of Christ the Redeemer in Glory with the Heavenly Host by Niccolo Circignani Il Pomarancio (1588) in main apse of church Basilica di Santi Giovanni e Paolo.


22 tháng 10, 2022

Tản mạn: CHÚT TẢN MẠN NGÀY KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

1.

 Có dịp đặt chân đến giáo xứ Phú Hòa, thuộc giáo phận Qui Nhơn, tôi chợt bắt gặp được tấm bia tưởng niệm những vị linh mục đã đến và phục vụ tại giáo xứ. Đứng lại đọc đôi chút và điều khiến tôi bất ngờ là hình ảnh và tên của chính người cha anh trong Dòng, cha Alexandre Rhodes, S.J. được xếp ở vị trí đầu tiên của bia tưởng niệm. Lịch sử của giáo xứ Phú Hòa có ghi lại: “Giáo họ Thiên Lộc ngày nay, trước kia mang tên là Chợ Mới, một vùng đất đã đón nhận bước chân các thừa sai Dòng Tên từ thuở đầu công cuộc truyền giáo trong Giáo phận.”[1]


Báo Tri Tân được phát hành vào ngày 13/6/1941 với tiêu đề: “Ông Alexandre de Rhodes (1591 – 1666)” do tác giả Hoa Bằng và Tiên Đàm. Tác giả bài báo đã dành gần trọn ba (3) trang báo để viết về sự kiện nhà bia Alexandre de Rhodes được khánh thành vào 5 giờ chiều ngày 29/5/1941 bên đền Bà Kiệu (Hà Nội). Trang báo đã có những mô tả về “Compagnie de Jésus” (Dòng Chúa Giê-su hay ở Việt Nam còn gọi là Dòng Tên) và gọi các tu sĩ Dòng này là “Jésuites”. Cha Alexandre Rhodes, S.J. hay lúc đó còn được gọi là Cố Trang là một trong những Jésuites hoạt động trong lĩnh vực truyền giáo ở mảnh đất Á Châu. Bài báo có đoạn mô tả về cha Alexandre Rhodes như sau: “Ưa giản-dị, mộc-mạc, yêu bình-đẳng, thích gần-gụi với hết thảy các hạng người trong xã hội, ông Alexandre Rhodes đã rất thông-sáng, lại giàu đức khiêm-tốn và tinh-thần hi-sinh.”[2]


Nghĩ đến bấy nhiêu, trong tâm thức tôi chợt được gợi lại nhiều điều về tinh thần truyền giáo mà những cha anh trong Dòng đã thực hiện trên toàn thế giới, cách riêng những người anh tiên khởi đã đặt chân lên mảnh đất Á Châu.




2. 

Kỷ niệm 400 năm thành lập Thánh bộ phụ trách truyền giáo (1622-2022) cũng gợi lên nơi bản thân tôi về trăn trở và thao thức truyền giáo của Giáo Hội. Khởi đi từ những tình hình và nhu cầu được nghe tường trình, “Rôma thấy mình có bổn phận thiết lập một cơ quan quản trị tập trung các công cuộc truyền giáo lại nhưng cũng xây dựng các nguyên tắc cho hoạt động truyền giáo nhằm thành lập một hàng giáo sĩ địa phương. Do đó, vào năm 1622, Đức Grêgôriô XV có sáng kiến “lập các giám mục hoàn toàn trung thành với quyền bính của ngài, nhằm thành lập hệ thống các địa phận truyền giáo”.”[3] Nơi sáng kiến này, cụ thể qua Huấn thị gởi các đại diện tông tòa tại Đàng Ngoài và Đàng Trong (Instructions aux vicaires apostoliques des royaumes du Tonkin et de la Cochinchine) được soạn thảo năm 1659, Giáo Hội không nhằm thay đổi đường hướng truyền giáo hoàn toàn mới để đáp ứng đòi hỏi của thời đại, nhưng sáng kiến ấy là một “sự hài hòa các phương pháp […] những thực hành khác nhau của mục vụ truyền giáo từ tông đồ Phaolô cho đến các tu sĩ dòng Tên.”[4]

Như thế, sứ mạng truyền giáo là một truyền thống tốt đẹp của người Ki-tô Hữu ngay từ sơ khai cho đến ngày nay. Hơn nữa, sứ mạng ấy vẫn tiếp tục được duy trì dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi thời đại.


3.

 Sau mỗi giờ lớp hàng tuần, tôi thường cho các bạn học viên, là các bạn nữ đang trong giai đoạn tìm hiểu ơn gọi dòng Mến Thánh Giá, đọc lời kinh xin ơn với Đức Cha Pierre Lambert de la Motte. Các bạn có hỏi tôi rằng: “Có phải thầy thích Đức Cha Lambert và linh đạo Mến Thánh Giá?” Tôi đáp lại các bạn bằng nụ cười thay cho những giải thích dài dòng. Bởi lẽ tôi được đánh động bởi lời bộc bạch của một vị Giám Mục bên di cốt của Đức cha Pierre Lambert de la Motte rằng: “… Cha là gương mẫu cho tất cả mọi người, và cách riêng cho hàng giáo sĩ của chúng con nữa. Khi nhìn lại những việc làm và gương sống của cha, chúng con biết rằng chúng con phải truyền bá lòng yêu mến đối với cha. Hôm nay, chúng con xin bắt đầu cho những chậm trễ của chúng con. Trong việc dấn thân phục vụ cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, noi gương cha, chúng con chọn Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất…”.[5]

Vâng! Chỉ là những bắt đầu của những chậm trễ, đáng nhẽ lòng biết ơn ấy đã phải được thể hiện từ lâu lắm rồi. Tôi mong rằng nụ cười thay cho câu trả lời cũng chính là câu trả lời ưng ý nhất với các bạn, những người nữ trẻ muốn dấn thân sống linh đạo Mến Thánh Giá giữa lòng Giáo Hội.


 4.

Chút góp nhặt vụn vặt những ý tưởng về sứ mạng truyền giáo, tôi muốn nhắc nhớ chính mình ý thức về thái độ biết ơn. Trên hết là biết ơn Thiên Chúa vì Người vẫn luôn hiện diện và thánh hóa công cuộc truyền thống đẹp đẽ này. Sau là biết ơn Giáo Hội là người Mẹ luôn trăn trở và ôm ấp vào lòng những đứa con được sinh ra bởi Thần Khí dù ở bất kỳ lãnh thổ nảo trên thế giới. Kế là biết ơn những con người đã đổ mồ hôi, thậm chí xương máu để loan báo Tin Mừng cho anh chị em mình. Nữa là biết ơn những bậc cha anh đã dấn thân trên mảnh đất Việt vì công cuộc truyền giáo.

Xin cho tôi biết sống tâm tình tuyệt vời ấy với những thế hệ tiếp sau mình, như tâm tình tri ân các tiền bối, tri ân Giáo Hội và tri ân Thiên Chúa.


Khánh Nhật Truyền Giáo 2022

Little Stream


[1] Xem nguồn lịch sử giáo xứ Phú Hòa tại: https://gpquinhon.org/q/lich-su-giao-phan-giao-xu/luoc-su-giao-xu-phu-hoa-1303.html#_ftn1

[2] Xem bài báo Ông Alexandre de Rhodes (1591 – 1666) tại: https://gpquinhon.org/q/on-co-tri-tan/ong-alexandre-de-rhodes-1591-1660-5369.html

[3] Xem bài viết tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/400-nam-thanh-lap-thanh-bo-phu-trach-truyen-giao-1622-2022-thanh-bo-truyen-ba-duc-tin-46177

[4] Xem bài viết tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/400-nam-thanh-lap-thanh-bo-phu-trach-truyen-giao-1622-2022-thanh-bo-truyen-ba-duc-tin-46177

[5] Xem và nghe lại nguyên văn lời cầu nguyện của Đức Cha… tại Ban Mục vụ Truyền thông Tổng Giáo phận Sài Gòn : https://www.youtube.com/watch?v=QgBcjoK_-Zo