28 tháng 11, 2021

Suy tư: CHỜ?

 “Sao lại phải chờ? Chờ gì?” một người bạn ngoại đạo đặt câu hỏi sau khi nghe tôi giới thiệu về Mùa Vọng. Trong lúc suy nghĩ cách trả lời sao cho hợp lý, vô tình tôi lại nghiệm ra chút gì đó về ý nghĩa của mùa Vọng trong tâm thức của người Ki-tô Hữu. Mùa Vọng không chỉ là sự chờ đợi Đấng Cứu Thế đến trong hình hài của một đứa bé bằng da bằng thịt, cũng không phải mong được hưởng cái bầu không khí se lạnh của mùa Giáng Sinh kéo dài đến tận Tết Dương Lịch và cả Tết Âm Lịch, cũng chẳng phải muốn nghe lại những bài hát Giáng Sinh vui nhộn cho hợp bầu không khí. Trong tĩnh lặng, tôi nghiệm ra rằng mùa Vọng gợi lên cho mỗi người một thực tại của kiếp người, rằng chúng ta thiếu… rất thiếu… và chúng ta chờ mong được khỏa lấp những thiếu thốn ấy.


Thiếu gì? Kể ra những nhu cầu của con người thì chẳng biết bao nhiêu giấy mực mà kể cho hết, nhưng sâu thẳm mùa Vọng muốn nhắc nhớ tôi và bạn về sự thiếu vắng hạnh phúc vĩnh cửu và niềm mong mỏi được hưởng hạnh phúc ấy. Dẫu sao chúng ta vẫn phải công nhận rằng mọi nỗ lực trong cuộc sống của mỗi người đều nhằm mang lại hạnh phúc hoặc cho bản thân hoặc cho một ai đó. Nhưng thực tại là hạnh phúc ấy quá vắn vỏi. Theo dòng thời gian, những vắn vỏi ấy biến mất như chớp mắt và để lại bao nhiêu cảm thức ngậm ngùi. Ai đó mới sống với tôi hạnh phúc hôm qua thì hôm nay đã lìa xa tôi vĩnh viễn. Công việc mới hôm qua suông sẻ thì hôm nay đã gặp trắc trở và thậm chí còn mang hàm oan. Đại dịch mới tưởng đã dập tắt nay lại tiếp tục bùng lên âm thầm mà mãnh liệt… Cứ thế, vui hôm qua rồi buồn hôm nay, xen lẫn những tích cực lẫn tích cực khó diễn tả.




Thực tại đời tôi và bạn là thế. Vì là thực tại nên chúng ta cũng chẳng thể trốn tránh hoặc sợ hãi mà co ro nơi góc tường chờ những thực tại không mong muốn sớm biến đi. Nhưng mùa Vọng lại cho tôi cái nhìn tích cực hơn bởi lẽ mùa ấy mang cho tôi niềm tin vào Đấng Cứu Độ. “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18) Nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà tôi đã nhận được lời hứa hẹn chắc chắn rằng đời sau của tôi là hạnh phúc vĩnh cửu nếu tôi chân thành sống trọn vẹn Thánh Ý của Thiên Chúa ở đời này. Chính góc nhìn ấy chỉ cho tôi thấy rằng những vui buồn trong cuộc đời không là trò đùa trớ trêu của Tạo Hóa khi xem con người như con rối để điều khiển. Hoàn toàn ngược lại, Thiên Chúa đã mặc cho tôi và bạn một nhân vị cao quý, để chúng ta hiểu rằng mọi biến cố trong cuộc đời đều là những công cụ hữu hiệu giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu, chỉ là chúng ta có biết cách sử dụng chúng hay không mà thôi.


Nói thì có vẻ lý thuyết, nhưng thực tế tôi và bạn có bao giờ dám ngồi lại, ngẫm xem có phải trong mỗi người vẫn còn cảm giác thiếu một điều gì đó sâu thẳm mà không thể gọi tên? Có phải mọi nỗ lực hiện tại của bản thân tôi đều có giới hạn nhất định và chóng qua? Và nếu hỏi rằng mong chờ thẳm sâu nhất nơi mỗi người là gì, thì đáp án có phải là một điều gì đó cụ thể mang lại hạnh phúc nhất cho tôi hay ai đó?… Nếu chưa bao giờ lặng lại để suy nghĩ, thì có lẽ mùa Vọng năm nay là dịp để chúng ta ngồi lại…


Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người đã trả lời những suy ngẫm ấy của tôi. Chờ đợi không còn là chờ một em bé sắp được sinh ra để cứu nhân loại, cũng không phải là chờ những bản nhạc hay, những bộ đồ đẹp và thời tiết mát lạnh. Nhưng là chờ… hạnh phúc vĩnh cửu vào một ngày nào đó. Tôi và bạn được mời gọi sống chân thành và triển nở trong ơn gọi làm người và làm Ki-tô Hữu, để xứng đáng với lời mà Chúa Giê-su đã nói: “…anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”(Lc 21,28).


Cuối cùng, tôi đã có câu trả lời cho bạn của mình – một người bạn ngoại đạo – về nỗi chờ mong cho mình và của bạn. Có thể đáp án không giải đáp tất cả, nhưng cả tôi và người bạn ấy đều được mời gọi hướng về một ngày mai tươi sáng và hạnh phúc. Từng ngày hạnh phúc làm nên từng tháng hạnh phúc. Từng tháng hạnh phúc làm nên từng năm hạnh phúc. Từng năm hạnh phúc dệt thành một đời hạnh phúc. Mong rằng đến phút cuối cuộc đời, cả tôi và bạn sẽ biết mình thiếu gì, chờ gì và biết đích thị rằng mình đã sống hạnh phúc như thế nào.


Little Stream

25 tháng 11, 2021

Tản mạn: CÀ PHÊ ĐẮNG

 “Cà phê đắng!” câu nói phát ra từ miệng của một người bạn thân trong một quán nước. Tay bạn vẫn khuấy ly cà phê vừa được thêm vào chút đường, thi thoảng đưa muỗng lên nhấm nháp, rồi nói: “Cà phê đắng!” dù đã cho đường đến mấy lần. Ngồi đối diện, tôi nhìn bạn, miệng cũng thốt lên đồng tình: “Ừ! Đắng!”


Tôi biết vị đắng mà bạn cảm giác được đâu chỉ là của cà phê mang lại, nhưng… vì vợ của bạn đã ra đi trong đợt Covid bùng lên lần thứ hai. Tan ca chiều bạn chỉ kịp nghe điện thoại của vợ: “Anh! Về trông con giúp em! Em vô khu cách ly rồi!”. Bàng hoàng. Thảng thốt. Nín lặng. Cố bình tĩnh dặn dò vợ giữ sức khỏe, rồi dặn đừng lo lắng nhiều việc ở nhà vì đã có bạn lo. Nhìn đứa con mới hơn năm tuổi còn thơ ngây, chưa hiểu chuyện gì, bạn lại rơi nước mắt. Tin tức dịch bệnh càng lúc càng căng thẳng, báo đài thông tin liên tục, các trang báo cập nhật liên tục, bạn nhớ tới người mình yêu thương đang một mình đối đầu với cơn bệnh bất chợt, lại rơi nước mắt. Nửa đêm, con vừa chợp mắt, điện thoại reo, đứa bé giật mình cựa quậy, bạn vuốt nhè nhẹ ngực đứa bé để con ngủ tiếp, lén ra ngoài nghe điện thoại. Đầu máy bên kia tiếng thở dồn, lúc mạnh lúc nhẹ. “Anh! … Em mệt quá!…Anh!” Bạn cố giữ bình tĩnh không để cảm xúc chen lấn suy nghĩ lúc này. “Em! Ráng khỏe về với anh và con.” Bên kia chỉ nói đúng vài tiếng hổn hển: “Dạ! Em ráng!” rồi cúp máy. Sáng hôm sau nhận tin buồn vợ ra đi vĩnh viễn. Bạn ôm con khóc. Đến ngày hẹn, đến nhận di vật của vợ để lại là chiếc điện thoại, chiếc nhẫn cưới và giấy tờ tùy thân.




Có lẽ vị đắng mà bạn đang cảm nhận là nỗi nghẹn uất khó tả. Làm sao tả nỗi trước những bất ngờ. Trước cảnh tượng ấy tôi không dám nói gì ngoài thừa nhận cùng bạn: “Ừ! Đắng!”. Thông thường, trước những biến cố đầy cảm xúc ấy, tôi vẫn khuyên người khác chấp nhận thực tại: “Thôi thì kiếp người sinh-lão-bệnh-tử. Trước sau gì cũng đến lúc ra đi!”, hay “Thôi để họ đi cho thanh thản đi!”. Nhưng cớ sao trước cảm xúc đong đầy của người bạn thân, tôi cũng nghẹn vì đắng. Nỗi bế tắc là điều then chốt trong cả người trong cuộc và người ngoài cuộc. Bởi lẽ, có khuyên gì thì cũng vô ích trước những thực tại khó chấp nhận này. Đúng rồi! Con người chứ không phải con rối vô tri vô giác, để trước mất mác lớn lao thử hỏi ai không đau nhói.


Hớp ngụm cà phê, bạn lấy bàn tay quẹt nước mắt. Bầu không khí thinh lặng bao trùm cả tâm trạng bạn và tôi, dù rằng quán nước ồn ào bởi tiếng bao nhiêu người và tiếng nhạc. Nỗi đồng cảm kéo tôi vào miền thinh lặng và đau xót của bạn. Đúng là khi cảm được phần nào của nỗi đau ấy, tôi hiểu rằng ly cà phê có bỏ bao nhiêu muỗng đường vẫn đắng, hớp bao nhiêu hớp vẫn không hết ly cà phê chút xíu.


“Tính sao ông?” Tôi hỏi bạn sau gần một giờ thinh lặng. Mắt vẫn đỏ vì cơn xúc động trực trào mà bạn đã cố nén lại. “Ừ! Thì còn con nhỏ mà ông! Niềm an ủi của tui đó!” Tôi mừng quá vì một suy nghĩ tích cực lóe lên trong đầu bạn tôi. Bạn nói tiếp: “Vừa làm cha vừa làm mẹ khó lắm! Nhưng mỗi lần nhìn con tui nhớ vợ vì đó là kết quả tình yêu của vợ chồng tui.” Tôi nhận ra mình cần cảm thông và nâng đỡ bạn nhiều hơn trong chính lúc này chứ không phải buông mình theo thứ cảm xúc tiêu cực xuất hiện trong cả hai chúng tôi suốt gần giờ qua. “Tiếp tục công việc, lo cho con thành người. Vợ tui chắc cũng vui lắm khi thấy đứa nhỏ thành người.” Những suy nghĩ của bạn lúc này lại nâng đỡ cảm xúc quỵ lụy của tôi, đang kéo tôi ra khỏi miền đồng cảm mà tiến tới cảm thức đồng hành trong hành trình mới.


Buổi cà phê vỏn vẹn chỉ vậy. Buổi nước hôm ấy tôi trả tiền. Ra bãi lấy xe, bạn không quên cám ơn tôi và không quên bình luận: “Cà phê ở đây ngon lắm! Cám ơn ông nghen!” Bon bon lái xe về, tôi chợt nghĩ cà phê đắng cũng có cái hay của nó. Nó giúp người ta tỉnh ngộ giữa cuộc đời nhiều khó khăn này để chấp nhận thực tại. Nó giúp người ta nhận ra rằng dù đắng, nhưng chỉ cần chút kết hợp nào đó thì ly cà phê sẽ dần khác… khác lắm!


Tiểu Tuyền

24 tháng 11, 2021

Truyện ngắn: KẺ HÁT - NGƯỜI NGHE

 “Hát đâu chỉ có hay với dở, sai với đúng.

Còn là chuyện người ta chịu nghe mình nữa.”


Thằng Mót khoái hát. Nó hát bất chấp ở đâu hay vào lúc nào. Miễn trong người có hơi men ngà ngà là nó lại hát. Mà phải chi nó hát hay cũng đỡ, đàng này hát ngang phè như cây đàn lạc nhịp, chỗ nặng chỗ nhẹ nghe chói tai quá sức. Thằng Mót có thói quen vừa hát vừa la, như thể nó muốn la cho nguyên cái xóm nghe được giọng ca “thánh thót” của nó. Những bản bolero mọi khi nghe trên đầu đĩa thiệt hay, mà qua miệng thằng Mót là coi như “bể đĩa”. Mấy ông bạn nhậu lúc chếnh choáng hơi men thì gật gù “khen hờ” khiến thằng Mót tưởng nó hát hay thiệt. Mấy người trong xóm nhiều lần góp ý kiến lúc nó tỉnh táo: “Mót ơi! Tao lạy mày! Mày tha cho tụi tao. Đi làm cả ngày mệt thấy mẹ, có chiều tối được nghỉ, mày hát om sòm vậy chết tụi tao!”. Thằng Mót mặt kênh kênh nhìn rồi trả lời ngang hông: “Kệ mẹ tui! Tui hát miệng tui ai biểu mấy người nghe!”.


Tánh nó vậy. Tỉnh thì hiền khô như cục đất. Tốt bụng hay giúp đỡ bà con. Giao việc là nó làm tới nơi tới chốn, làm đẹp đẽ đàng hoàng chứ không làm chiếu lệ. Nhiều cô trong xóm cũng thương nó muốn ráp đời với nó thì cha mẹ các cô la rầy: “Cái thứ quỷ sứ say xỉn đó mày lấy về khổ cả đời”, có người cười mỉa rồi nói: “Lấy về cho nó hát cho mày nghe hả con. Mày nhắm có nghe nó hát cả đời được không? Chắc mày nghe được, còn tao thì không.” Cuối cùng Mót vẫn vậy. Một mình. Xỉn thì hát. Mà cứ mỗi lần hát là chẳng ngó trước ngó sau. Cứ hát vậy cho cuộc đời “có ép-phê”, theo lối diễn tả của nó. “Ép-phê” với nó là cái thứ gì không biết? Thường người ta ghiền trà, rượu hay cà phê thì mới có cái gọi là “ép-phê”, mà “ép-phê” mọi khi được hiểu là sung sướng, thoải mái kìa. Đàng này nhìn tướng nó khổ muốn chết thì “ép-phê” chỗ nào? Cũng chịu! Thanh niên gần ba mươi tuổi cũng chịu khó làm ăn. Mỗi tội nhậu vô là đi đứng xiểng liểng rồi… hát. Nói riết hổng chịu nghe, bà con cũng bó tay.




Lâu lâu đổi gió, nó lại hò vài câu cũng ngang phè không thua gì hát bolero: “Hò ơ! Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu đời đắng cay.” Có hôm thì nó vô mấy câu cải lương trớt quớt: “Điệp ơi mai anh lên chốn thành đô có nhà xe rực rỡ… nên Võ Đông Sơ đành chia tay người yêu lý tưởng Bạch Thu Hà.” Mấy đứa nhỏ chạy theo sau lưng vỗ tay rầm trời khích cho nó hát tiếp. Bà con đứng cười ngắc ngư với điệu bộ xỉn rượu của nó. Chân này tréo chân kia, nhếch lên một bước rồi lùi ba bước. Đi kiểu này tới sáng mới tới nhà. Ngó bộ dạng thất thểu như thể mất đi cái gì đó lớn lắm, gắng mà không níu lại được. Có người biểu: “Chắc nó nhớ con vợ nó!”. Người thì bẻ lại: “Chết lâu rồi! Nhớ gì nhớ hoài. Lấy con khác cho rồi! Mới hơn ba mươi chứ nhiêu!”. Có người thì biểu: “Ai dám gả đâu mà lấy! Sợ thấy mồ!”.


Mót mồ côi từ nhỏ. Lạ lùng cả xóm không ai biết cha mẹ nó là ai. Chỉ biết nó được một người dì nuôi nấng. Hai dì cháu mua miếng đất, cất cái nhà, rồi sống với nhau tới lúc nó tầm hơn mười tuổi thì dì nó chết. Từ lúc đó, thằng Mót thui thủi một mình đi kiếm việc làm trong xóm: sên vuông, làm cỏ, be bờ hay bẻ dừa mướn… bất cứ việc gì nó làm được thì nó nhận hết. Cũng giỏi giang và cẩn thận nên ai cũng tin tưởng và cho thêm tiền. Năm nó gần hai lăm tuổi thì rước con Ngọc nghe đâu ở miệt Trà Lồng hay Trà Cú về làm vợ. Chẳng hỏi cưới gì cả, chỉ ở vậy thôi. Nói chung con nhỏ cũng được, hai đứa sống cũng hạnh phúc. Bù cho gần chục năm ở một mình, giờ có Ngọc về ai cũng mừng cho nó. Nhưng chưa kịp có đứa con nào, vài năm sau thì Ngọc chết. Thằng Mót chôn vợ ngay sau miếng đất nhà mình. Từ đó nó đâm ra uống rượu và… hát.


Mà đặc biệt mỗi lần nó hát đố có lần nào nghe được bản nào vui. Ngay dịp tết mà nó cũng hát nào là “xác pháo hồng” rồi “em theo chồng” gì đó. “Trời! Mày tha cho xóm đi Mót! Tết nhứt cho bà con may mắn đầu năm, gì mà chưa chi xác pháo rồi chia ly không vậy?” Nó cũng nghểnh đầu trả lời đúng một câu: “Cho có ép-phê!”. Riết người ta cũng đành mặc kệ. Đầu tóc bù xù, quần áo rách bươm, thân hình đen đủi.


“Chú Mót! Hát cho tụi con nghe đi!” Trong xóm có mỗi mấy đứa nhỏ là đòi nghe Mót hát. Thằng Điệu là một trong nhóm mấy đứa trẻ mỗi khi rảnh rang lại bắt chước Mót. Hỏi sao nó khoái nghe thì nó trả lời: “Chú Mót vậy mà hay lắm à! Mỗi lần ổng hát là hai mắt nhắm nghiền, đầu hơi hất lên chút xíu, tay cầm cành củi khô như ca sĩ trên truyền hình vậy. Hát say sưa. Hát nhiệt tình. Hát mà… nước mắt ròng ròng. Nhậu càng xỉn thì hát càng hăng mà khóc cũng dữ hơn nữa…” Nghe thằng Điệu khen Mót hát hay, cô Chín – mẹ thằng Điệu-  cốc đầu nó: “Mày biết gì về nhạc nhòa mà biểu nó hát hay! Hát dở như hạch mà khen cho dữ! Đúng là con nít”. Cô Chín nói cũng có lý do vì cô là dân hay đi hát đám ma đám cưới trong xóm. Hát thì không xuất sắc nhưng nghe cũng được. Cô biết chút ít kỹ thuật hát lấy hơi và ngân nga nên cũng kiếm bộn tiền sau mỗi cái đám. Đúng là so ra giọng hát cô Chín hay hơn thằng Mót biết bao nhiêu ấy chứ! Mà cũng đúng như thằng Điệu nói là Mót hát phong cách thiệt, đúng chất lãng tử, mỗi tội giọng hát… lãng nhách. Chả đâu dính vào đâu. Mấy đứa nhỏ bắt chước phong cách của Mót. Mỗi khi tỉnh rượu, nó nhìn mấy đứa nhỏ mà nó cười ngặt nghẽo.


-“Sao chú Mót hát hay vậy mà hổng cô nào trong xóm chịu ưng vậy cà?”


Hai con mắt lim dim nhướng không nổi. Ngồi xếp bằng trên ván cầm ly rượu nốc vài hơi. Mót hước vài tiếng rồi trả lời mấy đứa nhỏ:


-“Hát đâu chỉ có hay với dở, sai với đúng hả mạy. Còn là chuyện người ta chịu nghe mình nữa.”


Mấy đứa nhỏ gật gù mà chắc cũng chả hiểu Mót nói gì. Thôi kệ, đang lúc xỉn kêu Mót hát cho mấy bài trước khi nó lật ngang và ngáy đều.



“Ủa! Thằng Mót mấy hổm rày đâu hổng nghe nó đi ngang vậy cà?”. Mấy ngày không thấy Mót xuất hiện, bà con cũng lấy làm lạ. Bữa đầu nghe yên ắng ai cũng thích rồi tự nhủ: “Chắc nó bệnh hổng chừng. Mà thôi! Vậy cho khỏe làng khỏe xóm”. Nhưng lâu lâu có người buột miệng thốt lên câu nói nghe giật mình: “Hổng có nó, tự nhiên xóm mình nghe lặng lẽ quá!”. Cứ như khán giả ngồi chờ đoàn cải lương chuyên về biểu diễn phục vụ bà con không bằng. Mọi khi Mót hát người ta bịt tai quá trời, có ai thèm nghe. Vậy mà bữa nay có người biểu nhớ tiếng hát ngang phè của nó. “Hôm bữa chú Mót biểu lên Sài Gòn đi làm, ổng nói với tụi con trong lúc xỉn rượu.” Thằng Điệu trả lời những thắc mắc của bà con. “Đi hồi nào?”. Thằng nhỏ chưa tới mười tuổi làm điệu bộ kiểu thằng Mót lúc hát: “Ai mà biết!”. Có người sực nhớ: “Còn con Ngọc! Không ai nhang khói cho nó! Tội con nhỏ.”


Chắc Mót muốn quên Ngọc. Chắc nó muốn quên cái cuộc đời “thiếu ép-phê” mà kiếm cái gì có “ép-phê” hơn là rượu và hát. Chắc nó muốn làm lại cuộc đời để thấy gì đó tươi sáng hơn… là ở xóm này. Hay… nó chết bờ chết bụi đâu đó, dưới nước hay trên bờ. Hay nó chán cái xóm suốt ngày chê giọng hát dở òm của nó mà kiếm cái xóm nào đó chịu nghe cái giọng ngang phè của nó. Ngẫm lại thì đúng là đời nó vất vả nhiều, thiếu thốn nhiều mà cô đơn cũng nhiều. Chắc… cũng có cô gái khóc thầm thương cái nết siêng năng và giỏi giang của nó chăng? Chắc… trong xóm cũng có người ghiền cái giọng hát vô duyên của nó? Chắc… cũng có người biểu: “Phải chi…”. Hổng biết cái “ép-phê” mà nó nói có phải là những gì hạnh phúc đã rời xa đời nó không? Mà chắc là phải, vì… mỗi lần hát là nó toàn hát mấy bản nhạc buồn. Buồn thấy mồ thấy tổ.


Màn đêm buông xuống, khoảnh sân, đường xóm dần tối và lặng lẽ. Cái quạnh quẽ của màn đêm được phủ đầy tiếng ếch, nhái và ễnh ương. Thằng Điệu nằm xoay mặt vô vách, chợt thút thít. Trời! Nó nhớ thằng Mót. Cô Chín quay sang bóp nhẹ bả vai con: “Trời! Nhớ nhung gì thứ quỷ đó con? Ngủ đi!”. Khóc một hồi nó thiếp đi, chợt nghe đâu vẳng cái tiếng ngang phè của thằng Mót, tiếng hát vẳng đâu đó, gần lắm mà cũng xa lắm. Ừ! thì cái xóm này cũng quen với tiếng hát của nó rồi mà, mà giờ… nó đi đâu mất tiêu rồi!


Little Stream

19 tháng 11, 2021

Tản mạn: CHÚT TẢN MẠN VỀ VIỆC GIÁO DỤC

 (Nhớ đến những nhà giáo dục nhân ngày 20/11)


Thông thường người ta vẫn hay xếp giáo dục vào vị trí một ngành nghề như bao ngành nghề khác trong xã hội, cụ thể giáo dục được gọi là ngành sư phạm hay nghề giáo. Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn của những ai chưa dấn thân hoặc đã dấn thân mà chưa sống đúng lý tưởng của công việc này, nên dễ có cái nhìn lệch hướng. Thực vậy, những ai đã đón nhận công việc “gõ đầu trẻ” với niềm hoan lạc và chân thành thì họ hoàn toàn không xem đây là một nghề kiếm tiền như bao ngành nghề khác. Xin trưng dẫn một vài ý tưởng bổ trợ cho quan điểm vừa nêu.


Thoạt tiên, trong lãnh vực giáo dục không có những chuyên gia. Dễ tìm trong xã hội nhiều người đạt đến trình độ thượng thừa trong một ngành nghề, đến nỗi người ta gọi họ là “chuyên gia”. Tuy nhiên, việc giáo dục không chỉ được xem như phương tiện hỗ trợ để con người phát triển tri thức, kỹ năng và nhất là nhằm xoay sở cuộc sống, bởi lẽ lãnh vực ấy còn rộng lớn hơn nhiều so với những điều vừa kể. Đối tượng của giáo dục là con người. Nội dung của giáo dục không những là những kiến thức, kỹ năng mà bao hàm hết thảy nội dung có liên hệ tới việc xây dựng tính cách của con người. Hình thức của giáo dục không cố hữu trường kỳ vì con người, đối tượng của giáo dục, luôn thay đổi trong mọi thời đại. Như thế, người hoạt động trong lãnh vực giáo dục cũng không tự công nhận mình là một chuyên gia trong giáo dục, nhưng chỉ là một trung gian truyền tải một khía cạnh nào đó mà bản thân họ thủ đắc được mà thôi.




Thứ đến, ưu tiên hàng đầu của giáo dục và giảng dạy vốn hướng tới đào tạo nên con người, chứ không chỉ cung cấp kỹ năng hoặc tri thức. Đích nhắm của giáo dục là mong muốn rèn giũa nên những con người tốt lành, đạo đức và có ích cho xã hội. Chính vì thế khi đầu tư cho giáo dục ít khi nào người ta so đo hay tính toán những thiệt hơn về vật chất, bởi sự nghiệp xây dựng nên một con người là điều vô giá không vật chất nào sánh được. Những con người tài giỏi là chủ thể làm ra vật chất chứ không phải ngược lại. Cụ thể nơi gia đình, những bậc cha mẹ đã bỏ bao nhiêu công sức để nuôi dạy một đứa con nên người. Môi trường học đường đã tạo mọi điều kiện để con người được giáo dục cách tốt nhất. Nơi xã hội, những con người được giáo dục vẫn đứng vị thế được tôn trọng và được trọng dụng trong nhiều ngành nghề. Như thế, nếu ví von giáo dục như một ngành nghề thì nó đáng được xem là ngành nghề cao quý nhất so với mọi ngành nghề. Tuy nhiên, lãnh vực này đáng được trân trọng hơn nhiều ngành nghề gấp nhiều lần.


Tiếp đến, xin đề cập tới những nhà giáo dục, ở đây được kể là ông, bà, cha, mẹ, thầy, cô và những ai tham gia giáo dục cách gián tiếp, nghĩa là hết thảy mọi người trong xã hội đều làm giáo dục. Môi trường gia đình được ví von là “ngôi trường đầu tiên” và ông, bà, cha, mẹ là những “người thầy, cô đầu tiên”, có vai trò rất quan trọng trong việc thiết lập nên đạo đức và tri thức căn bản nơi một con người. Những bài “học ăn, học nói, học gói, học mở” và những cách thứ giao tế chung trong xã hội được gia đình truyền đạt cách gần gũi và mau chóng. “Mưa dầm thấm lâu” là phương thức mà gia đình sử dụng trong việc giáo dục. Xét ra hình thức ấy không thuyết phục về mặt lý trí vì không khởi đi việc giải thích ngọn nguồn của vấn đề, mà chỉ quan sát, lắng nghe và bắt chước. Nhưng xét ra trong giai đoạn này con người chưa cần đến những lý lẽ thuyết phục cũng chưa cần những yếu tố ngọn nguồn rốt ráo mọi chuyện, vì thế phương pháp này hoàn toàn phù hợp. Kế đến khi con người đến tuổi khôn, họ được lãnh giáo những kiến thức cách nền tảng và hợp lý theo lý trí qua môi trường học đường. Lúc ấy, thầy cô đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng. Đồng thời, sự đồng hành của bạn bè, xã hội, tổ chức và mọi thành phần cũng là yếu tố tác động đến con người. Như thế, kết quả của việc giáo dục không là kết quả của một người hay một tổ chức, mà hơn thế là kết quả của một xã hội rộng lớn tạo thành.


Còn đối tượng được giáo dục thì sao? Chắc chắn mỗi người khi được thừa hưởng một nền giáo dục luôn khao khát những điều lớn hơn tri thức và kỹ năng. Lớn lên về thể xác là chưa đủ, hơn thế cần đẩy mạnh việc tu dưỡng đạo đức trưởng thành và kiên trì hướng tới chân lý. Muốn như thế, đối tượng được giáo dục mong muốn nơi những cha mẹ và thầy cô của mình một tấm lòng chân thành và khao khát hướng tới việc bồi dưỡng cho nhân cách con người. Cụ thể, con người cần được quan tâm và chăm sóc cách cụ thể qua cử chỉ, lời nói và tình cảm chân thành. Chắc chắn những ai yêu công việc giáo dục tận tâm luôn mang suy nghĩ rằng: “Tôi không đặt chân đến giảng đường để lấy tiền của học sinh, tôi muốn trao tặng tình yêu và lòng khao khát dành cho học sinh, muốn các em nên người có ích trong tương lai.” Đồng thời, nơi những đối tượng được giáo dục cũng cần nỗ lực để vươn tới qua những chỉ dẫn của cha mẹ, thầy cô và những người có trách nhiệm. Chính con người phải tự ý thức về trách nhiệm và tự chịu trách nhiệm về cuộc đời mình chứ không phải bất kỳ ai khác. Họ phải tự làm nhà giáo dục cho chính mình.


Như thế, trách nhiệm giáo dục để hoàn thành nhân cách nơi một con người là trách nhiệm chung. Với ý thức đầy đủ như thế, người ta không còn đổ lỗi cho nhau về trách nhiệm giáo dục thuộc về riêng rẽ một ai. Đồng thời, khi biết mình cũng là một người thầy – cô cho chính mình cũng như những người xung quanh, thì điều đó càng nâng thế giới và xã hội lên một tầm mức cao hơn – tầm mức ý thức xã hội, ý thức chung.


Môi trường là yếu tố thiết yếu vì mọi người đều được dung chứa trong một môi trường cụ thể nào đó. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Nghĩa là một người khi sống trong bất kỳ môi trường nào cũng có khả thể chịu tác động bởi môi trường ấy. Cũng có ý kiến cho rằng: “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Xin không dám khẳng định điều ấy là sai, nhưng tự đặt câu hỏi liệu có phải tất cả đều như thế. Xét về khía cạnh tâm lý bình thường, một đứa bé được sinh ra trong một gia đình bạo lực bởi cha mẹ, anh chị em, thì tương lai của đứa bé ấy rất có khả thể trở nên con người bạo lực. Ngược lại, một đứa bé được giáo dục đầy đủ, đàng hoàng thì tương lai sẽ sáng sủa và rộng mở hơn nhiều. Không là điều tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cho thấy việc giáo dục góp phần to lớn trong việc hình thành con người như thế nào.


Bên cạnh đó, việc giáo dục một con người cũng không là chuyện một ngày một bữa. Hầu như chưa có nhà giáo dục nào dám khẳng khái rằng họ là một con người có nhân cách tuyệt hảo. Cũng chưa nhà giáo dục nào dám công nhận có thể đào tạo nên những con người có nhân cách tuyệt hảo. Tất cả chúng ta đều cùng đi trên một hành trình thành nhân, nghĩa là đi đến hội nhất con người và tinh thần nên trọn hảo từng ngày. Như thế, sự hỗ trợ của việc giáo dục là cần thiết. Hơn nữa, việc này đòi hỏi nơi cả nhà giáo dục lẫn đối tượng được giáo dục một sự kiên nhẫn, chịu đựng những gian nan nhất định. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Mong rằng dịp lễ Tri ân các Nhà giáo cũng dịp suy ngẫm chút gì đó về giáo dục và mục đích tinh tuyền của nó.


Nguyện chúc những nhà giáo dục luôn kiên nhẫn, ý thức rèn mình và hướng dẫn cho nhiều con người trong xã hội. Nguyện chúc những con người được giáo dục luôn kiên nhẫn, nỗ lực rèn mình và góp phần dựng xây chính mình nên hữu ích từng ngày cho tương lai.


Little Stream

15 tháng 11, 2021

Truyện ngắn: BỆNH NHỚ

NGHE AUDIO TRUYỆN TẠI ĐÂY


Hào líu ríu xách theo chiếc làn nhựa be bé, đi sau lưng bà ngoại. Ngoại nắm chắc bàn tay nhỏ xíu của đứa cháu, thi thoảng buông ra lau vài giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, rồi nhanh chóng cầm bàn tay Hào. “Nhanh lên con! Nắng quá!”


Ghé tạm gốc cây to ven đường, bà cháu đứng nghỉ mệt. Ngoại cầm một bên vành nón lá phe phẩy quạt cho hai bà cháu. Khuôn mặt non choẹt của Hào đã đỏ ửng vì cái nắng chói chang vào lúc trời gần trưa. Có lẽ đứa nhỏ năm tuổi cũng thấy nản vì đoạn đường quá xa và có vẻ cậu muốn ngồi luôn ở gốc cây, để ngoại đi một mình, nhưng… cậu không dám nói. Ngồi chừng vài ba phút, ngoại lại giục Hào đứng lên đi cho kịp về ăn trưa.


Đi ngang nhà thờ, ngoại hướng mặt về giữa cửa nhà thờ đóng kín mít. Hào không để ý đi thẳng một hơi, ngoại giật tay cháu lại: “Hào! Chào Chúa cái đã con.” Bà cháu cúi đầu chào… cái cửa đóng bưng. Hào chẳng biết trong đó có cái gì mà chào, nhưng nghe lời ngoại vậy. Nhích vài bước tới con đường nhỏ bên cạnh nhà thờ, có hai hàng dừa mát rượi. Như lấy lại sức sống, Hào vẫy tay khỏi tay ngoại rồi chạy một mạch, vừa chạy vừa bung hai cánh tay như đón lấy cái gió vi vút mát rượi mà hai hàng dừa mang lại, bù cho nãy giờ chịu nắng nôi thiêu đốt. Ngoại nhìn cháu rồi mỉm cười.




Đứng tần ngần trước ngôi mộ. Hào để ý hành động của ngoại. Bà nhẹ nhàng lấy cái chổi nhỏ xíu quét từ phía cây Thánh Giá trước mộ, rồi quét lần xuống dưới. Rờ tấm hình nhỏ xíu phía giữa tấm bia, bà ngừng lại đôi chút. Hào thấy khuôn mặt người trong hình quen quen, nhưng cũng là lạ. Quen như thể đã gặp đâu đó, mà lạ vì… hình như chưa gặp lần nào. Ngoại quét lần ra phía sau ngôi mộ. Khom người nhổ mấy cọng cỏ mọc tùm lum hai bên mộ. Miệng không quên lẩm bẩm: “Thứ quỷ gì mọc nhanh thiệt! Mới nhổ tuần trước!”


Rồi bà đứng thẳng người lên, lấy tay áo lau mồ hôi trên trán. Ra chỗ Hào đang đứng phía trước ngôi mộ. “Đọc kinh cho ông ngoại nghen con!”


““Ông ngoại!”, nghe lạ quá! Là ông nào ấy nhỉ! Mà chắc có quen với mình”. Hào “Dạ!” một tiếng rõ to với bà. Cậu bé khoanh tay ngoan ngoãn như mọi khi đi lễ trong nhà thờ. Các cha, các thầy và các dì bắt khoanh tay đứng nghiêm trang thế nào, thì cậu cũng đứng y như vậy. Bà bắt kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính và kinh cầu cho các linh hồn. Ngoại đọc thành khẩn, hình như không chỉ có mồ hôi vì cái nắng, mà có… nước mắt của bà đang rơi lã chã.


Cánh tay áo ướt mem vì lau mồ hôi, nhưng hình như cũng ướt vì lau nước mắt. Hào chưa biết sự thể gì, chỉ đoán là… bà khóc.


“Sao ngoại lại khóc vậy cà?” Chắc bà đau chỗ nào đó. Vì mọi khi cậu cũng khóc thét lên khi đau chỗ nào trên cơ thể. Như hôm đánh nhau với thằng Nhớ cuối xóm, máu mũi máu đầu tè le, nó cũng khóc bù lu bù loa chạy về với ngoại và ba mẹ. Rồi có hôm đau bụng cũng ôm bụng khóc một mình, ngoại thấy thì hỏi và lấy thuốc cho cậu uống. “Không biết ngoại đau chỗ nào?” Quan sát thái độ của ngoại, Hào thấy bà đặt tay lên ngực, bàn tay nắm chặt lớp vải áo như muốn bóp nhàu lớp vải hay sao ấy. “Hay bà đau?” Cậu quan tâm hỏi: “Ngoại bệnh hả?” Bà vội trả lời: “À! Không! Ngoại khỏe như trâu! Bệnh tật gì đâu!”. Hào lại thắc mắc: “Vậy chứ sao ngoại vịn áo hoài vậy?”. Bà xoa đầu đưa cháu còn nhỏ xíu và ngây thơ hết sức. “Ờ! Có những chuyện lớn lên con sẽ biết mà! Ngoại không có bệnh gì đâu!”


Về nhà, Hào cứ nghĩ mãi về điều ngoại nói. Hỏi mẹ, mẹ trả lời: “Bà bị bệnh… nhớ!”. Hào lại thắc mắc: “Bệnh nhớ là bệnh gì hả mẹ?”. Sau một hồi suy nghĩ, mẹ mới giải thích cho cậu: “Ờ thì ông ngoại với bà ngoại ở xa nhau, bà ở nhà, ông ở ngoài đất thánh. Không ở chung thì nhớ. Như mỗi lần đưa con tới lớp thì con nhớ ba mẹ rồi khóc vậy đó!”. Thắc mắc cứ dồn thêm thắc mắc, Hào lại hỏi: “Vậy có thuốc nào chữa được bệnh… nhớ không mẹ? Chứ nhìn ngoại bị bệnh tội nghiệp lắm! Thấy bà đau mà thương dễ sợ!” Mẹ xoa đầu Hào, hạnh phúc vì có đứa con ngoan ngoãn, biết thương ngoại và ba mẹ. Mẹ hỏi Hào:


– “Con có để ý tấm hình trên mộ. con thấy ông ngoại cười không?”.


– “Dạ thấy! Ông cười tươi lắm!”


– “Mẹ chỉ cho con một loại thuốc chữa bệnh nhớ là mỗi lần thấy ngoại vậy thì con khều nhẹ và nói với bà: “Ngoại ơi! Ngoại khóc nhè ông ngoại cười kìa!” Là ngoại sẽ hết bệnh liền.”


Hào ngạc nhiên trước bài thuốc của mẹ. Những lần sau đó, mỗi lần cùng bà đi viếng mộ ông, thấy bà khóc thì cậu lại khều bà rồi nói như mẹ chỉ, đúng là bà hết khóc mà quay sang cười. Tự nghĩ trong bụng: “Chà! Thuốc công hiệu thiệt luôn! Mẹ giỏi thiệt!”.


Năm sau bà ngoại cũng đi theo ông. Hào cũng tỉnh bơ. Chỉ biết khóc lúc kéo tay mà ngoại không cử động, chứ cậu chẳng biết ngoại ra đi vĩnh viễn. Đứa nhỏ thơ ngây trách: “Ngoại kỳ cục! Sao hổng chơi với Hào nữa!”. Mẹ thấy vậy thì úp mặt vô tường mà khóc. Thấy mẹ khóc thì Hào khóc theo, thành thử mẹ con ai cũng khóc, mẹ thì lấy tay đập vào vách tường, Hào vẫn kéo tay ngoại kêu ngoại… thức dậy dẫn đi chơi.


Giữ thói quen của ngoại, mẹ cũng dẫn Hào đi thăm mộ ông và bà sau mỗi lần tham dự Thánh Lễ buổi chiều xong. Mẹ cũng khóc, cũng đưa tay xoa ngực y như ngoại, Hào chắc mẩm mẹ cũng mắc bệnh nhớ giống bà, cậu cũng dùng “bài thuốc” y như mẹ chỉ, mẹ cũng cười trong nước mắt, xoa đầu đứa trẻ còn khờ khạo. Tối về, không còn ngoại hát ru cho ngủ, Hào khó ngủ và khóc nhè, mẹ dỗ hoài không chịu ngủ, cứ thút thít suốt, mẹ chỉ nhìn con thút thít mà cũng nước mắt ngắn dài, vậy là Hào cũng mắc “bệnh nhớ” mà hổng biết.


Mẹ đi theo ông bà ngoại. Hào đã là chàng trai mười bảy. Cậu cũng đứng trước mộ ông, bà và mẹ mà… khóc. Chợt nhận ra mình cũng đang mắc “bệnh nhớ!”, cũng đang xoa ngực mà khóc. Ba đứng bên cạnh không áp dụng “bài thuốc” như mẹ chỉ. Ba cũng mắc “bệnh nhớ”, vì cũng quằn quại trước nấm mồ của mẹ mới lấp đất còn ươn ướt. Hào đã hiểu ra “bài thuốc” mẹ chỉ không còn tác dụng nữa, vì… thực ra… nỗi nhớ làm gì có thuốc chữa. Đau vẫn đau, thiếu vẫn thiếu và… khóc vẫn khóc mà thôi.


Mười bảy tuổi, Hào một mình xách xe chạy xuống đất thánh. Mang theo nhang, quẹt lửa. Đi ngang nhà thờ cậu xuống xe, cũng hướng về tấm cửa gỗ đóng bưng như mười mấy năm về trước mà cúi đầu. Cũng lấy chổi quét những ngôi mộ, cũng đốt nhang, đọc kinh, xoa ngực và… khóc.


                                                                                     Little Stream

14 tháng 11, 2021

Tản mạn: GIUSE PIGNATELLI - XIN CÁM ƠN CHA!

  Ngày 14/11, anh em Dòng Tên kính nhớ cha thánh Giuse Pignatelli, S.J – một người cha anh đi trước trong Dòng, người đã giữ gìn tinh thần Dòng trong những lúc Dòng lâm cảnh khó khăn. Hẳn rằng khi kể đến thánh nhân, nhiều anh em trong Dòng đã bùi ngùi xúc động; Đặc biệt, cha được chọn làm bổn mạng của các cha nhà Hưu dưỡng của tỉnh Dòng Tên tại Việt Nam. Vì thế, con muốn viết lên đôi điều để cám ơn cha vì những hy sinh thầm lặng, để góp phần cộng tác với ơn Chúa mà duy trì Dòng trong những thời khắc nguy kịch nhất.


Ngay khi còn là một ứng sinh tìm hiểu Dòng, con đã được các cha và các thầy dạy về tinh thần biết ơn. Lòng biết ơn có thể kể đến ở nhiều đối tượng và khía cạnh khác nhau, nhưng có một khía cạnh mà anh em chúng con được khuyên không được quên và đừng bao giờ quên, đó là biết ơn cha anh đi trước trong Dòng. Những con người đã hy sinh thầm lặng xây nên tinh thần vững chắc của Dòng, là những dấu nối dài từ thế hệ này sang thế hệ khác, là dấu chứng cho sự tồn tại của Dòng dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, là nỗ lực của biết bao con người mỏng giòn yếu đuối nhưng đã gắng vươn lên từng ngày nhờ ơn Chúa, là chứng nhân cụ thể cho anh em chúng em về tình yêu Thiên Chúa đối với Dòng. Vâng! Các ngài đáng được ghi nhớ, cách riêng là cha thánh Giuse Pignatelli mà hôm nay anh em trong Dòng mừng kính.




Cha! Một người anh em tốt lành đã âm thầm gìn giữ Dòng trong thời gian đầy khó khăn và nước mắt suốt bốn mươi bốn năm trường (1767-1811). Bao nhiêu hắt hủi, xua đuổi, đau khổ, nhưng vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó Dòng được tái lập. Quy tụ anh em tản mác vì không còn nhà Dòng, cha lo cho anh em chỗ ăn ở, sinh hoạt, học tập và tiếp tục rèn luyện đời sống tu trì trong lúc Dòng chịu gian nan thử thách. Cuối cùng, cha nhắm mắt khi chưa được chứng kiến Dòng được hồi sinh vào vài năm sau đó. Câu nói của cha để lại trong con nhiều suy nghĩ: “Xác tôi làm mồi cho tôm cá hay giòi bọ cũng không quan trọng. Điều tôi ao ước hơn hết là được chết trong Dòng Tên với các anh em tôi.” Câu nói mà bất kỳ thành viên nào trong Dòng trong mọi thời đều suy nghĩ và phản tỉnh lại bản thân mình. Tự đặt ra những câu hỏi rằng: “Tôi có dám chấp nhận hy sinh vì anh em tôi? Nếu một ngày Dòng cần… tôi có dám đón nhận?” Chính thái độ của cha cho thấy lòng yêu mến Dòng tha thiết. Chỉ có tình yêu mới giữ cả thân xác lẫn tinh thần của cha trong Dòng dù trên thực tế lúc đó Dòng đang bị gạt bỏ.


Ánh sáng le lói! Phải chăng cha nhận thấy một ánh sáng le lói nào đó lóe lên? Bởi trong bối cảnh của sự tăm tối, tuyệt vọng và chết chóc khiến bao nhiêu người sợ hãi, thì làm sao cha vẫn tin rằng Dòng vẫn tồn tại và một ngày nào đó Dòng sẽ hồi sinh? Đức tin mạnh mẽ đã thắp lên nơi cha một ánh sáng nội lực mạnh mẽ, để dù bất cứ khó khăn, thách đố nào đi chăng nữa cũng không quật ngã được.




Cha được chọn làm bổn mạng cho cộng đoàn nhà hưu dưỡng của Dòng tại Việt Nam. Con tự hỏi vì sao? Có điểm nào để nối kết? Hẳn phải có. Anh em trong Dòng không có khái niệm về hưu, bởi lẽ mỗi giai đoạn đều có một sứ mạng. Sứ mạng của các tu sĩ khi tuổi về già là cầu nguyện cho Dòng đến hơi thở cuối cùng. Dâng những đau khổ thể xác vì bệnh tật cùng với những hy sinh qua sự chịu đựng thầm lặng, các cha và các thầy vẫn là gương sáng cho mọi thành viên trong Dòng. Các vị là nhân chứng đức tin mạnh mẽ cho thấy không phải tuổi già và bệnh tật là vô dụng, ngược lại các vị vẫn đang thi hành sứ mạng riêng mà Dòng trao phó. Trong mắt người đời thì các vị đang chịu đựng những tăm tối của kiếp người, cụ thể là bệnh tật và đau khổ, nhưng trong cái nhìn đức tin thì còn món quà nào xứng đáng để dâng lên Thiên Chúa bằng sự hy sinh âm thầm ấy, còn lời cầu nguyện nào giá trị cho bằng lời cầu nguyện trong lúc khốn cùng ấy.


“Sau cơn mưa trời lại sáng”, “không ai giàu ba họ- không ai khó ba đời”… dân gian vẫn hay nói như thế để mặc cho nhau niềm hy vọng trong khó khăn, nhưng lắm lúc họ vẫn rơi vào tuyệt vọng. Tuy nhiên, trong niềm tin vào Thiên Chúa, thì không bao giờ có khái niệm tuyệt vọng, có chăng là con người rụt chí và bỏ cuộc mà thôi. Thánh Giuse Pingatelli và các tu sĩ nơi cộng đoàn hưu dưỡng là nhân chứng sống động cho sự can trường đấu tranh ấy. Không bỏ cuộc! Không bao giờ bỏ cuộc! Chỉ cần biết cuối đường hầm là ánh sáng, thì dẫu tăm tối mấy cũng không bỏ cuộc.


Cám ơn cha thánh Giuse Pignatelli, cám ơn các cha và các thầy nơi cộng đoàn hưu dưỡng. Ngày lễ mừng kính thánh nhân cũng là dịp để tri ân, để cầu nguyện cho các cha và các thầy thật nhiều. Ước rằng cuộc đời mỗi tu sĩ của Dòng đến lúc xuôi tay nhắm mắt dám đoan nguyện như thánh Giuse Pignatelli: “Xác tôi làm mồi cho tôm cá hay giòi bọ cũng không quan trọng. Điều tôi ao ước hơn hết là được chết trong Dòng Tên với các anh em tôi.”


Little Stream (Silicat)

Flower Photo: Moon

13 tháng 11, 2021

Suy tư: SỐNG VUI VÀ CHẾT VUI

 “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126, 5-6). Chắc chắn không người Công Giáo nào còn lạ lẫm với câu Thánh Vịnh này, cách riêng vào những dịp mừng lễ kỷ niệm Giáo Hội tôn phong 117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam, nay có thêm vị Á Thánh An-rê Phú Yên là vị 118 của Giáo Hội Việt Nam. Các ngài là những hạt giống được gieo trên nương đồng của mảnh đất Việt Nam, để hôm nay những thành quả thu về là đức tin đang không ngừng lớn lên mạnh mẽ nơi chính mảnh đất này. Cái chết của các vị không là cái chết đau buồn, nhưng trong đức tin cho thấy các vị đã sống vui và cũng chết trong niềm vui.


Tự hỏi hai thái độ trái ngược nhau được trích dẫn trong câu Thánh Vịnh trên sao lại có thể am hợp với nhau? Đương nhiên, theo lẽ thường thì đây là điều khó có thể chấp nhận với nhiều người. Nhưng với người Ki-tô Hữu, cách riêng với người Công Giáo, thì đây là một chân lý. Cuộc sống vốn luôn được bao trùm bởi những thuận lợi và khó khăn, thành công và thất bại. Chính vì thế, con người nơi cuộc sống dương gian vẫn luôn khao khát được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Tuy nhiên, vì những vương vấn tục lụy lôi kéo ý chí vươn cao của họ, nên khó khăn và thất bại vốn là điều không thể tránh. Nhưng đó không là nguyên cớ cho sự buồn tẻ và thất vọng của kiếp người. Thay vào đó, người Ki-tô Hữu được mời gọi xem những đau khổ và khó khăn ấy chính là phương tiện để dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu. Thậm chí là đối diện với chúng trong một tâm thức tích cực.


Chắc chắn kiếp người chẳng ai dại dột mà rước đau khổ vào mình. Người Ki-tô Hữu cũng thế, không chủ trương muốn làm tổn hại “ngôi Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1Cr 6,19); Đồng thời, cũng không hy vọng ôm lấy cuộc sống bi quan và làm ra thái độ “gánh tội” giùm cho người khác để tự cứu độ chính mình. Không! Mục đích của chúng ta là cùng nhau sống thánh thiện, cùng nhau được cứu độ. Các thánh tử đạo đã không hy sinh cuộc đời cách oan uổng vì các ngài đã góp phần mang lại ơn cứu độ cho người khác và cho chính mình. Các ngài không đón nhận đau khổ trong tinh thần ích kỷ mà mở ra với hết mọi người. Nụ cười, lời khuyến khích, động viên, lời kinh, lời tha thứ, lời tuyên xưng đức tin… là những điều cuối cùng trước khi chấm dứt cuộc sống trần gian mà các vị đã làm. Rõ ràng, như một mong chờ đã vươn đến tột đỉnh, các thánh tử đạo đã xem sự sống nơi trần gian là phương tiện để cùng mọi người đạt tới ơn cứu độ, xem cái chết là bước quan trọng đáng mong chờ để bước vào cõi phúc đời sau.




Lẽ đương nhiên, người viết nên những dòng suy nghĩ này chưa trải qua cái chết. Cũng vậy, có lẽ những độc giả đang đọc những dòng này cũng chưa từng kinh qua cái chết. Nhưng qua các thánh tử đạo Việt Nam, những bậc tổ tiên anh hùng về đức tin, chúng ta có thể cảm nghiệm chút gì đó niềm vui của các ngài, niềm tự hào khi là con cháu của các ngài. Các thánh tử đạo Việt Nam nhắc nhớ chúng ta rằng cuộc sống trần gian này là phương tiện hữu hình và đức tin là phương tiện vô hình để giúp ta đạt tới Nước Trời. Miệng vẫn vang vang cười nói giữa cuộc đời khổ ải, vẫn kiên vững niềm tin, để được trở về với Thiên Chúa trong Tình Yêu vĩnh cửu.


Chúng ta, những con người vẫn còn sống nơi trần gian, cũng được mời gọi hướng tới một cuộc sống vui tươi và tích cực như thế. Nụ cười, lời khuyến khích, động viên, lời kinh, lời tha thứ, lời xin lỗi, lời cám ơn, lời tuyên xưng đức tin… vốn là những điều chúng ta có thể làm được và… dư sức làm được. Chắc hẳn các thánh tử đạo Việt Nam cũng muốn chúng ta, là con cháu các ngài, luôn sống vui giữa nghịch cảnh, dám chết vui vì sự cứu rỗi của bao nhiêu linh hồn. Được như thế, niềm vui đích thực trên trời, cùng với các thánh, cũng đang chờ đợi chúng ta.


Little Stream

12 tháng 11, 2021

Truyện ngắn: RỚT LẠI BÊN HÈ

 Chị Sáu hôn thằng Phú chùn chụt. Nước mắt nước mũi tèm lem. Thằng nhỏ mặt khờ căm nhìn chị. Trời! Mới bảy tuổi biết gì. Nó đâu biết chị Sáu sắp trở lên Sài Gòn đi làm kiếm tiền gửi về cho ngoại nuôi nó. Nó không biết lần về thăm nhà này của chị là lần sau chót nó được chứng kiến tận mắt khuôn mặt dễ thương và phúc hậu của chị.


-“Ở nhà với ngoại ngoan nghen con!”


Thằng nhỏ chỉ dòm lom lom, hai tròng mắt đỏ ngầu chứ không mở lời nào với chị. Chị trông nó “dạ!” hay “ừ!” một tiếng cũng được. Đàng này nó… im re. Chắc nó coi chị là người dưng hổng chừng. Thì người dưng nước lã họ có quen biết gì nhau đâu mà nhung với nhớ. Một năm chị về đúng dịp tết, được 3 mùng tết thì trở lên Sài Gòn đi làm. Bao nhiêu tiền nong chị gửi về cho má dưới quê nuôi thằng con tội nghiệp của mình.




Phú ra đời vào ngày mưa tầm gió tã. Ngày đó mình chị nằm trong bệnh viện, không dám nhắn tin về cho má dưới quê. Cái tiếng “chữa hoang” đủ khiến cho má lên cơn đau tim mà chết tại chỗ, nên chị sợ. Ngẫm tới đó, chị ngậm đắng nuốt cay để giữ lại đứa bé và sinh nó ra đời trong âm thầm. “Phá thai!”, người ta khuyên chị, nhưng chị bỏ ngoài tai mọi lời ác độc ấy. Tự nhủ: “Trời! Con người ta chớ có phải con chó con mèo gì đâu mà biểu bỏ là bỏ”. Chị biết đứa bé đang ngọ nguậy trong bụng mình là một con người, là kết quả bởi tình yêu của chị và người mà chị gọi là “người yêu”. Chị thương anh thiệt lòng, cho anh tất cả, cho cả cái tấm thân vàng ngọc của đời con gái, nhưng cuối cùng nhận lại là sự ngoảnh mặt biền biệt. Bạn bè thân thiết kêu ai là “kẻ bạc tình”, nhưng chị đâu nghĩ vậy. “Chắc ảnh có niềm riêng!” Thôi thì cứ thứ tha để rồi có ngày sẽ được cuộc đời tha thứ ấy mà. Mang chi hoài nỗi hận. Đặt tên đứa bé là Phúc, mang họ của chị là Trần Gia Phúc. Bồng đứa nhỏ đỏ hỏn, dễ thương trên tay dễ thương và kháu khỉnh, chị lấy bàn tay xoa gò má của con: “Thôi nha con! Phải là Phúc chứ không hận thù gì nghen con!”.


Nhưng… có một nỗi đau dằn xé, âm ỉ. Làm sao quên được khuôn mặt người thương. Dễ gì rứt bỏ mỗi tình quen biết gần chục năm trời. Vậy mà người ta bỏ đi cái rột. Bỏ đi như đổ bỏ thau nước lã bên đường chứ… chẳng phải như thau nước phông tên rửa mặt rồi hẳn đổ thì cũng đỡ. Nghĩ mà đau xé! Mỗi lần kêu “Phúc ơi!” là khuôn mặt anh – cha đứa bé lại hiển hiện mồn một. Chị đành gọi trại tên con là Phú. Hôm làm giấy khai sinh cho con, chị ghi TRẦN GIA PHÚC và để trống chỗ tên cha. Con mang họ mẹ. Kể cũng lạ, mỗi lúc lớn Phúc nhìn y như cha nó. Mới bảy tuổi đầu mà nét mặt đã hao hao như người đàn ông mà chị yêu thương. Hai cặp chân mày rậm phần giữa mà mỏng hai phía đầu và đuôi, hai cặp môi mỏng dính như ai kẻ hai đường chì, khuôn mặt dài để lộ hai gò xương cao, thêm khuôn mặt buồn buồn ít khi cười đùa lại giống anh nhiều hơn nữa. Nghe người ta biểu con nít lớn lên sẽ đổi khác, nhưng chị không mong vậy mà… cũng mong vậy. Đừng thay đổi để khi nhớ anh chị dòm con đỡ nhớ. Mong nó thay đổi nhanh nhanh mỗi khi nỗi khó chịu bùng lên. Thương vô cùng mà… dằn vặt khủng khiếp.   


-“Má ơi! Con của con…”


Hôm mới đưa con về quê. Bà Hai ôm đứa nhỏ vào lòng. Nước mắt chảy ròng ròng. Nhìn con gái lom lom đang thẹn thùng cúi mặt. Mấy hổm rày xóm phong thanh tin về chị, bà Hai nghe hết trọi. Bán tín bán nghi, mà chắc tin nhiều hơn là nghi. Bởi mấy cuốc điện thoại gần đây chị gọi về cho bà nghe có vẻ là lạ. Nhiều lúc ngưng nửa chừng một hồi mới nói tiếp. Nghe tiếng con nít khóc thì chị nói: “Con nhà hàng xóm qua chơi”, mà giọng hoảng hốt. “Má đẻ con ra mà! Hổng lẽ con giấu má, có gì mà má hổng biết hả con?”. Thằng Phú ở với ngoại từ hôm đó. Thôi thì mang tiếng nuôi cháu mình, con của con gái, mà mỗi lần hỏi cha đứa nhỏ là bà Hai cười trừ, trả lời đắng ngắt: “Chết rồi!”


Ra đi chị xách đúng một chiếc túi nhẹ hều. Hôm trở về xách mấy túi toàn đựng quần áo và đồ chơi cho Phú. Chị mua hết mọi thứ để bà Hai ở nhà khỏi phải lo. Thằng Phú chỉ mê quần áo, đồ chơi. Thấy người lạ nó khóc nhưng thấy đồ chơi nó tỉnh rụi. Gần được hai ba ngày mến tay mến chân một chút thì… chị đi. Nắng chiều quạnh quẽ quá sức. Dọi xuống sân hè những mảng đỏ loét. Thằng Phú dòm theo bóng người phụ nữ lom lom. Nó cảm thấy có cái gì đó gần lắm mà cũng xa lắm. Gần như thể người phụ nữ có ruột rà với mình. Xa như thể cô ấy là người dưng nước lã. Người phụ nữ duy nhất mà nó biết gọi là “Ngoại!”, còn tiếng “Má” hay “Mẹ” nghe gượng gạo quá.


Mặt trời đỏ hồng rọi xuống sân dần nhạt. Gió chiều thoảng bay làm mát da thịt. Bà Hai ôm thằng Phú vào lòng. Hai cái đầu cao thấp trong nắng và gió chiều. Chị đã lên xe. Đã tới Sài Gòn. Khoảnh sân ấy vẫn còn vương lại hình ảnh người phụ nữ hiền lành và nhiều đau khổ. Chị ra đi vĩnh viễn vì Covid nơi đất Sài Thành. Phú quên chị rồi! Quên thiệt rồi! Nhưng dòm di ảnh… nó nhớ… người phụ nữ chiều hôm ấy. Hiên hè gió vẫn thổi, nắng vẫn dọi và… có người phụ nữ vẫn xoa đầu nó rồi nói: “Ở nhà với ngoại ngoan nghen con!”.


Little Stream

09 tháng 11, 2021

Tản mạn: TÂM SỰ NGƯỜI SẮP... CHẾT

(Chúa ơi! Con suy nghĩ lộn xộn rồi, chỉ còn là nghĩ gì thì viết đó thôi!)


Chúa ơi,


Có lẽ đây là bức thư cuối cùng mà con cố suy nghĩ và viết ra, nơi trần gian này, vì con… sắp đón nhận cái chết. Con muốn viết những điều này để bày tỏ tâm tình phó thác của chính con ngay lúc này, đồng thời cũng muốn nói lên nỗi sợ hãi thể lý mà… có lẽ người sắp chết như con đang phải đối mặt.


Có một niềm an ủi tinh thần lớn lao mà những ngày qua mà con được lãnh nhận là được nhiều người thân yêu thăm viếng và hỏi han. Có lẽ chưa bao giờ trong đời con được mọi người quan tâm nhiều như thế. Những lời hỏi thăm đơn sơ mà chất chứa đầy tình cảm thiêng liêng. Có những lúc còn khỏe mạnh và được gần nhau nhưng không dễ nói ra những lời ấy. Con vui vì dám nói lời cám ơn và lời xin lỗi với họ. “Tôi xin lỗi anh!”, “Tôi cám ơn chị!”… Con thấy nét mặt của họ rất vui đón nhận lời xin lỗi và cám ơn của con, chắc chắn con tin Chúa cũng vui vì điều ấy. Có những người lâu lắm rồi chưa được gặp. Lúc này con nghiệm ra một câu thơ ý nghĩa của nữ thi sĩ:





“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui,

Cuộc đời như nước chảy hoa trôi, …”


Đúng rồi! Nước chảy và hoa trôi phút chốc rồi biến mất, chẳng còn gì để lại cuộc đời ngoài niềm vui và nỗi nhớ.


Những đứa con, đứa cháu đã quây quần bên con không muốn rời. Con đã chẳng dám nghĩ tới những lúc được như thế này. Các con đi làm mỗi đứa một tỉnh, nhớ lắm thì chỉ gọi điện thoại để nghe giọng nói, làm gì dám kêu chúng về gặp mặt, huống chi là đưa các cháu còn nhỏ về với ông nội hay ông ngoại. Nhiều lúc nghe tiếng các cháu kêu qua điện thoại: “Ông Nội/ Ngoại ơi! Cháu nhớ ông lắm!” Chừng đó là đủ làm con rơi nước mắt. Cảm thức nhớ con cháu nó vậy. Tuổi già hay thơ thẩn và cô đơn, nên có con cháu làm niềm vui của đời mình. Nhưng một năm các cháu chỉ được ba mẹ đưa về hai lần vào dịp tết và hè, được vài ngày rồi lại trở lên tỉnh để học. Vậy mà, lúc này các cháu ở cạnh ông, các con ở cạnh cha túc trực ngày đêm.


Con không muốn cho bất cứ thứ gì vào miệng nữa vì không còn cảm giác được vị ngon của đồ ăn, nhưng nghe tiếng con nói: “Ba ăn cho tụi con vui nghen!” là con lại nhanh chóng nuốt ực miếng đồ ăn ngon lành, rồi cha con lại mỉm cười. Con cười hỏi các cháu: “Chừng nào tụi con về trển?” tụi nó cười trả lời: “Dạ! Tụi con ở với ông nội/ ông ngoại luôn!”. Con mỉm cười trong hạnh phúc, chợt nước mắt rơi trên hai khóe mắt không cầm lại được, chợt suy nghĩ đến với con: “Ừ! Chừng nào ông… tụi con hẳn đi nghen tụi con! Ở với ông được phút nào hay phút đó!”


Nhìn lên tấm hình vợ con trên bàn thờ, con mỉm cười với bà. Chợt con muốn nói với bà: “Bà đợi tui nghen! Sắp được gặp bà rồi!”. Con cứ nghĩ cuộc đời như một chuyến tàu chuyên chở hành khách từ điểm này đến điểm khác. Con nghĩ cuộc sống cứ đầy ắp những niềm vui. Chỉ cần rong ruổi mấy mươi năm tìm mua tấm vé mang tên “cuộc đời”, mua được rồi thì đặt chân trở về, rồi sau đó là lên tàu sang một điểm đến mới. Nơi điểm đến ấy con thấy người vợ thân yêu của con, nơi con được nói cười và tâm sự những gì hành trình trước đây đã trải qua. Vui buồn đều có, tất cả đều là chất liệu quý báu cho hành trình kiếp sau.


Nhưng… có những nỗi sợ…


Con sợ những cơn đau thể xác. Phải chi những cơn đau như cơn đau răng, đau đầu hay đau bụng. Tìm vài viên thuốc đặc trị uống vào rồi nằm chờ vài giờ sẽ hết. Phải chi sức con đủ dẻo dai để những lúc cơn đau quặn thắt xương tủy đến thì con có thể gồng mình chịu đựng. Nhiều điều phải chi… Con chợt hiểu rằng cuộc sống nơi trần thế này của mình chỉ có một. Được sinh ra một lần, một lần làm trẻ thơ, một lần được lớn lên, già đi, và… một lần nhắm mắt để bước vào cuộc sống đời sau. Tấm vé “cuộc đời” là vé một chiều không có khứ hồi. Chính khi cảm nghiệm được lúc này là lúc mọi sự với con là… cuối cùng. Con thấy nhớ ông bà cha mẹ và những người mà con đã được gặp gỡ suốt mấy mươi năm cuộc đời. Có người đã ra đi trước con. Con nhận ra mình mang ơn họ thật nhiều trước những gì mà họ đã làm cho con, thấy mình có lỗi khi đã khiến họ buồn lòng dù chỉ là một suy nghĩ thoảng qua.


Con sợ… ra đi đột ngột. Đột ngột có lẽ lúc này không chính xác theo kiểu thời gian. Bởi lẽ khi cảm nhận sức lực nơi thân thể mình dần hao mòn và suy tàn, con hiểu ngày đời của mình sắp chấm dứt. Chỉ là không biết chính xác ngày nào, giờ nào, mà chắc rằng… đã gần lắm rồi. Những ngày qua được bác sĩ gắn vào người bao nhiêu là thứ dây nhợ chằng chịt, mỗi lần không chịu nổi cơn đau thì bác sĩ lại tiêm vào cơ thể những thứ thuốc gì khiến con tê dại, chẳng còn chút cảm giác nào. Con sợ… đột ngột phải bỏ lại tất cả mọi thứ nơi dương gian này. Sau mỗi cơn tê dại vì thuốc, thấy mình còn cố mở mắt được nhìn mọi người đã là nỗi vui lớn lao. Dù vẫn biết rằng cuộc đời này là tạm bợ, mau qua, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh hằng. Bỏ lại cuộc sống này là trở về với Thiên Chúa, nhưng chính lúc này con phải đấu tranh tư tưởng kinh khủng…


Con sợ bỏ lại những đứa con, đứa cháu thân yêu lại trần gian này, vì… con biết mồ côi là gì. Mồ côi khổ lắm. Mồ côi mẹ và bà đã là nỗi mất mác lớn lao, nay mồ côi cả cha và ông nữa thì có gì buồn hơn. Con đã cảm nếm được hạnh phúc khi nghe được người ta nói rằng: “Nó là con ông… bà…, ngoan lắm! Được ba mẹ nuôi dạy đàng hoàng, lễ phép hết sức!”. Nhưng con cũng nếm được đau khổ khi tiễn chính ba mẹ của mình ra đi vĩnh viễn, người ta chỉ trỏ rồi nói: “Tội thằng nhỏ, mới hơn mười tuổi đầu mà mồ côi cả cha lẫn mẹ!”. Thực… quặn thắt…


“Nơi Ngài con đặt hy vọng, nơi Ngài con dâng xác hồn…” Mấy đứa con mở cho con nghe những bài nhạc ấy suốt những ngày nằm bệnh chờ… chết. Các con rước cha đến ban Bí tích cuối cùng và chuẩn bị mọi sự cho cha của chúng. Con còn ý thức đầy đủ, con thấy tất cả và…


Lạy Chúa, chỉ còn lại tâm tình phó thác. Trong nỗi đau thể xác, tranh đấu tư tưởng giữa thiện và ác, trên hết vẫn là niềm tin vào Người. Xin tha thứ tội lỗi mà con đã phạm và xin thương đón nhận con vào Nước Người… Con sẵn sàng… Xin rước con… Lạy Chúa…


Little Stream

Ảnh: Moon

01 tháng 11, 2021

Tản mạn: HÃY HIỂU CHO CON...

 “Có con cái ư? Hãy giáo dục và uốn nắn chúng

ngay từ thuở còn thơ.” (Hc 7,23)



Cuộc đàm thoại 1:

Con: “Tôi muốn kiện bố mẹ tôi”.


Tòa thẩm vấn: “Cháu muốn kiện bố mẹ chuyện gì?”


Con: “Vì đã sinh ra tôi!”


Tòa thẩm vấn: “Vì sao?”


Con: “Tôi muốn nói với bố mẹ tôi rằng nếu đã biết trước sinh tôi ra mà không có khả năng nuôi nấng, dạy dỗ và yêu thương tôi, thì thà đừng sinh tôi ra thì hơn.”



Cuộc đàm thoại 2:

MC: “Anh có điều gì muốn nhắn với cha mẹ mình?”

Người được phỏng vấn: “Tôi muốn nói rằng con không trách gì cha mẹ, con vẫn yêu thương cha mẹ. Nhưng nếu có kiếp sau, thì… (hơi ngập ngừng) con xin… không làm con của cha mẹ nữa.”


……………………………..




Tôi cứ nghĩ những cuộc đàm thoại ấy chỉ có trong phim ảnh hoặc trong trí tưởng tượng của con người, nhưng… thật bất ngờ vì… chúng có thật. Những điều ấy đã ám ảnh nhiều người khi chứng kiến những đứa con muốn lìa xa chính cha mẹ của mình.


Lâu nay, người ta vẫn hay ca ngợi tình thương của cha mẹ. Vâng! Đó là điều tốt đẹp và là món quà đáng quý mà Thượng Đế đã ban cho mỗi con người. Người làm con thì có phúc vì là kết quả từ tình yêu của cha mẹ, được ủ ấp, sinh ra, nuôi dưỡng và giáo dục để trở nên người tốt. Con cái không cha mẹ quả là điều đáng buồn vì: “Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây”, “Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con lấm bùn.” Chỉ nghe qua vài câu ca dao mà đã phần nào cảm nhận được sự thiếu thốn của những đứa con không có cha mẹ bên mình. Tuy nhiên, hai cuộc đàm thoại trên lại cho tôi cái nhìn vấn đề ngược lại, vì… đâu đó trong xã hội ngày nay vẫn còn những người làm cha mẹ chưa sống trọn vẹn vai trò và trách nhiệm được trao cho họ.


Khi đặt nên vai trò người cha và người mẹ trong gia đình, Thiên Chúa đã trao cho họ những vai trò và trách nhiệm cụ thể. Sách Huấn Ca khi khuyên người làm con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7,27-28), thì đồng thời cũng có dạy bậc làm cha mẹ rằng: “Có con cái ư? Hãy giáo dục và uốn nắn chúng ngay từ thuở còn thơ.” (Hc 7,23). Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô nhắc nhở: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.” (Ep 6, 4). Thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, cũng có nhắc: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.” (Cl 3, 20-21) Thánh Công Đồng Vatican II cũng nhấn mạnh: “Vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha mẹ, sẽ chăm lo chu toàn bổn phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo, vì bổn phận này liên hệ đến họ trước.” (GS 48) Cha ông chúng ta cũng dạy: “Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn đương thơ.”


Chắc chắn những câu phát biểu của những ai muốn chối bỏ cha mẹ sẽ khiến nhiều người đau lòng và thậm chí kết án cách vội vã khi cho rằng chúng là những đứa con bất hiếu. Nhưng không thể nhìn vấn đề theo một chiều. Cần nghĩ và hiểu cho những hoàn cảnh khi phải phơi bày những thực trạng đau lòng này. Đa phần những người con nói lên điều này đều bị gán cho là: “không mong muốn”, “vỡ kế hoạch”, “phá gia chi tử”, “con cừu đen” (black sheep), “ngôi sao xấu”… hay những đứa trẻ được sinh ra vì mục đích mưu ích cho cuộc sống cha mẹ của chúng nhiều hơn là cha mẹ lo cho chúng. Những đứa con vốn “bất đắc dĩ” được sinh ra trong những gia đình có thói quen bạo lực, tệ nạn xã hội, hoặc cha mẹ hờ hững và thiếu trách nhiệm với con cái, hoặc chăm chú nghiêm khắc và kỷ luật thép thay vì đối xử bằng tình yêu mến. Cần một sự hiểu biết và đồng hành với những đứa trẻ xuất thân từ những bối cảnh kém may mắn như thế, vì chính từ nơi gia đình đáng ra phải cho chúng những giáo dục nền tảng và sơ khởi tốt đẹp, nhưng đàng này lại để lại trong ký ức của chúng những vết thương khó lành và… có thể không bao giờ chữa lành được. Tàn nhẫn hơn nữa là những vết thương ấy lại đi với chúng cho đến lúc chúng xuôi tay nhắm mắt.


Đồng ý rằng việc giáo dục con cái trong thời đại ngày hôm nay không là chuyện dễ dàng, cũng có nghĩa là chuyện giáo dục con cái trong mọi thời cũng không dễ dàng. Mỗi bối cảnh văn hóa, mỗi giai đoạn và mỗi tầng lớp có những đòi hỏi giáo dục khác nhau. Trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa, con người bị cuốn vào những vòng xoáy công việc và ai cũng vất vả để lo cho cuộc sống. Nhất là bậc làm cha mẹ phải lo đủ mọi chi phí sinh hoạt cho con cái là điều không dễ dàng. Thậm chí, những cãi vã trong gia đình, những xung đột trong tương quan vợ – chồng, cha mẹ – con cái khiến khoảng cách thân tình mỗi lúc một xa hơn. Đó là chưa kể đến những trường hợp con cái thiếu thốn tình cảm của người cha hoặc người mẹ vì phải chịu cảnh cha mẹ ly thân hoặc ly dị. Từ đó, chúng phải tự tìm cho mình cách bù đắp vào khoảng trống tình cảm ấy bằng bao nhiêu thứ khác, trong đó có cả những tệ nạn xã hội.


Vì thế, điều đầu tiên mà người ta cần kể đến là tình thương mà cha mẹ dành cho con cái mình. Một đứa con nhà nghèo tuy không đầy đủ vật chất, nhưng với tình thương cha mẹ dành cho mình, nó có thể lớn lên cách trọn vẹn. Tuy nhiên, một đứa trẻ được sinh ra thiếu tình thương dù gia cảnh có giàu có đủ đầy thì chúng vẫn còn thiếu thốn, mà đôi lúc cái thiếu thốn ấy dần trở nên vết hằn vĩnh viễn nơi tâm thức một con người. So sánh trên chỉ mang tính loại suy chứ không áp dụng đại trà cho mọi hoàn cảnh, nhưng điều chúng ta cần nhấn mạnh ở đây là chính tình thương yêu mà mỗi thành viên trong gia đình dành cho nhau là cực kỳ quan trọng. Hành trang ấy đủ sức khơi dậy những sức mạnh tiềm tàng nơi mỗi con người, như nắm men nhỏ vùi trong bột để làm cho cả khối bột dậy men.


Thứ đến, thay vì nghiêng chiều về bổn phận con cái đối với cha mẹ và lên án những hành vi đi ngược lại với chữ hiếu, cần có những phản tỉnh ngược lại để hiểu được tâm lý và nhu cầu của con cái mình. Điều căn bản nhất là xin hãy hiểu và đồng hành với những trăn trở và thao thức của chúng. Xin bậc làm cha mẹ đừng chỉ cho con cái mình những lời mắng nhiếc, roi đòn, kỷ luật,… hay tệ hơn là bỏ rơi chúng tự mình lớn lên và tự do “bơi lội” trong cuộc sống này. Đúng! Hoàn toàn con người tự bản năng có thể tự sinh tồn, nhưng những tương quan vốn là món quà Thiên Chúa ban cho còn có ý nghĩa lớn hơn nhu cầu sinh tồn ấy. Điều đó hướng tới một sự trưởng thành thực sự nơi mỗi con người cả về ý thức lẫn hành vi. Giáo dục cách thông minh, ứng trực là điều mà mỗi phụ huynh cần thủ đắc để giúp con cái mình thành nhân cách thực sự. Vấn nạn thời đại đặt ra là khoản chi phí đầu tư cho con cái kể từ khi mang thai cho đến lúc chúng có thể tự lập là quá nhiều. Tuy nhiên, mỗi con người là một nhân vị, mà để đảm bảo tính tròn vẹn của nhân vị ấy, thì những đầu tư tốn kém kể trên xem ra chính đáng biết nhường nào.


Xin hãy luôn nhớ rằng những thực trạng được phơi bày trong hai cuộc đàm thoại trên không là nguyên nhân, mà chúng là kết quả của nhiều yếu tố (môi trường ngoại cảnh, gia đình, học đường, xã hội…), mà phần lớn trong cái nhìn của một con người, nhất là một đứa con, thì yếu tố gia đình là quan trọng hơn hết. Một con người không thể tự khỏa lấp trọn vẹn mà không có những tương quan hỗ tương cần thiết như cha mẹ, bạn bè… Đồng thời, những khẳng định trên cũng cho thấy thực trạng đau đớn về sự tha hóa của mối tương quan cao quý – cha mẹ và con cái – trong xã hội ngày nay. Vì thế, một ngày nào đó… để không phải nghe những lời trách móc nặng nề, để không đón nhận những kết quả xấu cho con cái mình, để đào tạo nên những con người tốt lành và có ích, thiết nghĩ ngay từ bây giờ, bậc làm cha mẹ cần bắt tay làm điều gì đó thiết thực và nhỏ bé thôi.


Xin kết thúc chút suy nghĩ bằng những câu nói hay nghe từ những đứa con trong gia đình: “Ba mẹ ơi! Bỏ điện thoại (máy tính) ăn cơm chung với con được không?”, “cuối tuần này gia đình mình đi chơi được không ba mẹ?”, “Ba mẹ đừng cãi nhau nữa!”, “Ba/mẹ ở lại với con, đừng bỏ con ở lại một mình”… Vâng! Những câu nói nhỏ và giản dị thôi, nhưng… đáng ngẫm lắm!


Little Stream