31 tháng 10, 2021

Tản mạn: NÉT ĐẸP ĐỜI TU HUYNH

 Ai trung tín trong việc rất nhỏ,

thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10).


Ngày mới chập chững bước chân vào tìm hiểu Dòng, tôi được biết Dòng mà mình đang tìm hiểu có hai bậc sống: Linh mục và Tu huynh. Linh mục thì tôi biết vì đã từng có cơ hội được tiếp xúc nhiều. Còn Tu huynh, họ là ai? Lần mò từng bước một, dần dà tôi đã hiểu được đó là bậc sống tu sĩ trọn đời không nhận chức thánh, nói nôm na là làm một ông thầy trọn đời chứ không nhận tác vụ Linh mục. Như thế là đã rõ.


Nhưng Linh mục và Tu huynh khác nhau chỗ nào? Thú thật bản thân tôi vẫn hay có cám dỗ là nhìn ơn gọi dâng hiến theo góc cạnh tâm lý bình thường của một con người. Vì vậy, khó tránh khỏi việc nhìn về bậc sống Tu huynh và những ai sống trong bậc sống ấy mang một dáng dấp gì đó buồn bã và tiêu cực. Ngay cả bố mẹ tôi khi nghe tôi tâm sự về đời sống Tu huynh, họ cũng hỏi rằng: “Tu mà không làm linh mục thì tu làm gì trời?” Đúng rồi, ai cũng thắc mắc mà không dám hỏi. Bởi lẽ trong cái nhìn bình thường thì đi tu để làm linh mục, để dâng Thánh Lễ, để ban các Bí Tích, để thi hành nhiều tác vụ mà người giáo dân bình thường không làm được. Còn thuần sống chỉ để làm một tu sĩ trọn đời thì thôi thà sống như một giáo dân còn hơn. Thực tế suy nghĩ của người ta là thế! Chỉ là họ không dám bày tỏ trực tiếp mà thôi.




Tuy nhiên, từng ngày sống trong Dòng, tôi được tiếp xúc với nhiều Tu huynh trong Dòng, quan điểm bình thường ấy của tôi đã đổi khác, tích cực hơn và lạc quan hơn rất nhiều. Chính các Tu huynh là những người đã cảm hóa tôi rất nhiều. Những cuộc chuyện trò với các vị vẫn cho tôi cảm giác bình an đến lạ thường, cái bình an toát ra nơi những con người ít khi màng tới danh vọng, mà chỉ chú tâm sống trọn vẹn đời sống tu sĩ của mình qua đời sống phục vụ và dấn thân trong Dòng và Giáo Hội mà thôi. Giờ đây, tôi có thể đưa ra những ý nghĩa của đời Tu huynh mà tôi cảm nghiệm được:


Thứ nhất, các vị là nhân chứng sống động cho thấy đời tu là nỗ lực sửa mình liên lỉ. Điều cần sửa lớn nhất nơi những người đi tu là chính ý hướng. Ngay từ suy xét của nhiều người như kể trên đã cho thấy ý hướng thông thường của một người, dù họ có là tu sĩ hay không, nghĩ thế nào về đời tu. Chính vì thế, chọn lựa một bậc sống suốt đời là một tu sĩ giữ các lời khấn và không nhận chức thánh phải là những quyết định trong tự do và hạnh phúc. Các tu huynh trong Dòng mà tôi từng tiếp xúc là những con người dám đối diện với những ý hướng tiêu cực, dám đứng lên nói cho mọi người nghe về niềm hạnh phúc trong bậc sống của họ. Sau những phân định trong cầu nguyện liên lỉ, họ dám cam đoan rằng việc chọn làm linh mục không là điều Chúa muốn nơi họ, xác tín rằng Chúa muốn họ là một “anh nuôi” cho anh em trong Dòng, là người đồng hành với anh em và tha nhân theo cách rất riêng của mình, là người sẵn sàng xông pha ra mọi chiến tuyến với anh em để hỗ trợ anh em hết mình. Như thế, phương tiện hỗ trợ cho sự nỗ lực sửa mình nơi họ chính là lòng quảng đại, hy sinh và cho đi mà không tính toán.


Thứ hai, các vị là những con người yêu thích đời sống âm thầm. Rất nhiều lần tôi đã thấy các thầy Tu huynh âm thầm phục vụ những việc lặt vặt cho cộng đoàn. Tôi cũng tận mắt chứng kiến các thầy dấn thân cách triển nở trong lĩnh vực tri thức, truyền thông, truyền giáo, y tế, xây dựng, kiến trúc. Đàng sau những kết quả tốt đẹp mà bao nhiêu người nhìn thấy là những thành quả từ sự góp công của các thầy. Họ chỉ muốn đứng lặng thầm sau mọi thành quả để tạ ơn Chúa vì đã giúp mình, vốn là những con người tài hèn sức mọn, có thể hoàn tất sứ mạng được giao phó. Sau mọi ồn ào và náo nhiệt, các thầy lại trở lại là những con người trung thành phục vụ. Các thầy muốn nói với mọi người biết rằng: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10), như Chúa Giê-su có lần nói: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21). Còn niềm hạnh phúc nào cho bằng một người đầy tớ có được lòng tin của chủ đặt nơi mình, đồng thời cũng nhận được niềm tin của anh em cùng lý tưởng với mình nữa.


Thứ ba, như một vườn hoa có nhiều sắc hoa và hương hoa khác nhau, các Tu huynh đã góp phần tỏa sắc và hương rất đặc biệt. Sắc hương ấy không tỏa lan theo kiểu cố tình tạo điểm nhấn để làm nổi bật chính mình, nhưng là “hữu xạ tự nhiên hương” vì hương sắc ấy khởi phát đi từ tấm lòng chân thành và quảng đại. Khi hiểu hơn về bậc sống Tu huynh, tôi càng yêu mến những người ông, người chú, người anh em trong Dòng đã chọn bậc sống ấy. Họ không xem thường hương sắc mà Thiên Chúa trao ban theo kiểu lánh xa thế gian, nhưng lại cực kỳ quý trọng hương sắc ấy bằng lối sống hết mình và đằm mình cuộc sống thực tại, để sống chan hòa với hết mọi người, để đưa nhiều linh hồn về với Chúa. Hương và sắc qua những cảm nhận giác quan chỉ là những điều thoảng qua, nhưng cái cố hữu vĩnh viễn là chính Ân Sủng và Tình Yêu mà Thiên Chúa trao bao. Ý thức được điều ấy, các thầy càng sống hết mình hơn nữa.


Có một lời kinh mà bất kể thành viên nào trong Dòng cũng thuộc và cũng đọc, nhưng có lẽ các Tu huynh sẽ cảm nghiệm lời kinh ấy theo một kinh nghiệm đặc biệt nào đó:


“Lạy Chúa, xin nhận lấy

trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu

và trọn cả ý muốn của con.

Mọi sự ấy Chúa đã ban cho con.

Lạy Chúa,

Con xin dâng lại Chúa hết thảy.

Tất cả là của Chúa.

Chỉ xin ban cho con

lòng mến Chúa và ân sủng Chúa,

Vì được như thế là đủ cho con. Amen”


Đọc qua tiểu sử các Thánh và các Chân phước trong Dòng, tôi quý trọng mẫu gương của các vị Tu huynh đã âm thầm đóng góp cho Dòng, cho Giáo Hội và Xã Hội những gì rất nhỏ bé của mình. Ngẫm về hiện tại, tôi càng trân quý các Tu huynh mà tôi đang sống cùng hơn nữa. Xin chúc các Tu huynh luôn mãi sống triển nở, bình an trong ơn gọi đặc biệt này. Nguyện xin Chúa luôn đồng hành cùng các thầy trong mọi ngày sống.


                                                                                            Silicat

25 tháng 10, 2021

Truyện ngắn: TỰA VÀO NHAU MÀ SỐNG

 Dàn thành hình chữ V ngược, mẹ tôi đứng vị trí đầu, rướn mình bay tới. Cơn gió mạnh suýt hất văng đôi cánh đang cố sải ra của mẹ. Chúng tôi phía sau bay tới hết sức nhẹ nhàng. Ba tôi bay ngay phía sau mẹ, anh Hai và chị Ba bay liền sau Ba, còn tôi thì bay sau chót. Thi thoảng ba lại ngoái đầu lại nhìn tôi có bay theo đàn hay không. Từ phía sau tôi chỉ nhìn thấy lưng và cánh của các anh chị tôi, còn hướng ra xa hơn thì thấy chóp đầu của mẹ tôi ngay trung tâm. Chán phèo. Đã có lần tôi nói với ba và mẹ rằng tôi muốn bay vào vị trí của mẹ, nhưng cả nhà đều lấy cánh gõ lên đầu tôi mà cười khúc khích, còn bảo tôi là đồ ngốc. Đúng là khó hiểu.


Thông thường họ nhà chim chúng tôi vẫn di chuyển theo cách thức như thế, đặc biệt là những khi có gió lớn hoặc cơn mưa nổi lên phía trước. Chỉ cần hơi nước nhiều chút xíu là ba hoặc mẹ sẽ lên tiếng kêu gọi bầy đang tản mác ở các cành cây khác nhau trong khu rừng. Anh chị em chúng tôi đang mải mê tìm bắt những con cá, những con sâu trong cánh rừng quen thuộc, vừa nghe tiếng kêu liền tập trung thành đàn và ba hoặc mẹ ra lệnh cho cả gia đình bay sang khu vực khác an toàn hơn. Tôi chẳng hiểu sự nguy hiểm nằm ở chỗ nào mà ba và mẹ lại đưa ra quyết định chủ quan như thế. Bay đàng sau chỉ thấy gió thổi mạnh hơn chút xíu và mát mẻ hơn bình thường, tôi hất đầu và mỏ lên đón gió, bay chậm lại so với bầy một chút, tiếng ba tôi thét lên gọi nghe sao kinh khủng, tôi sợ hãi bay theo.




Quan sát thấy cách dẫn đàn của ba hoặc mẹ hoặc các anh chị lớn có gì đó là lạ. Mẹ sải cánh một chút thì ba bay lên vị trí của mẹ, mẹ về vị trí của ba. Chút sau thì anh Hai hoán đổi vị trí cho ba, cứ thế mà đội hình chữ V vẫn giữ nguyên vẹn từ cánh rừng này sang cánh rừng khác. Trong đầu tôi cứ nghĩ đấy là thói quen làm dáng của họ nhà chim chúng tôi chăng? Nhưng làm dáng cũng không chính xác, vì những lần chuyển chỗ như thế, tôi thấy ai vừa ở vị trí đầu đàn trở xuống phía sau đều mang vẻ mặt phờ phạc và mệt mỏi, như thể có ai đó vừa tác động vào khiến ba, mẹ hoặc các anh chị tôi đều đuối sức. Sao thế nhỉ? Thầm nghĩ ở vị trí ấy là thích nhất vì vừa thể hiện bản lĩnh biết xác định hướng, biết dẫn đàn, vừa nhìn rõ thế giới xung quanh. Ở vị trí đó cũng được đối diện với những cơn gió bằng tinh thần can đảm và chắc chắn sẽ có cảm giác thích thú mới lạ.


Một ngày, khi ba và mẹ tôi đã già, các anh chị tôi đã trở thành những chú chim đầu đàn thay cho ba mẹ, các anh chị còn sinh ra những chú chim con gọi tôi bằng cậu Út. Tôi cũng trưởng thành và trở thành một chú chim lực lưỡng với đôi cánh sải rộng không thua gì ba mẹ và các anh chị. Ba mẹ cho phép tôi dẫn đàn và hoán đổi vị trí cho các anh chị lớn. Ba mẹ không tham gia dẫn đàn mà đặt trọn niềm tin vào anh chị em chúng tôi, và ba mẹ chỉ âm thầm bay cùng các cháu ở phía sau, ngay vị trí mà ngày trước tôi vẫn đứng và khao khát vượt lên dẫn đầu.


Chợt trong đầu tôi hiện lên những gì rất đẹp mà từ xưa đến nay vẫn nghĩ: vị trí đầu đàn, bản lĩnh, can đảm, trưởng thành, vinh dự… và nhiều điều khác. Chợt những câu hỏi mà ngày xưa tôi hay hỏi mà chỉ nhận được tiếng cười của những chú chim lớn, cùng với cái cốc đầu thật đau lại xuất hiện trong tôi. Những thắc mắc vẫn chưa được giải đáp.


Anh Hai đang bay phía đầu gọi chị Ba lên thay thế. Cơn gió mạnh đang thổi khiến suýt chút phăng cả anh Hai và chị Ba bay lạc đàn. Tôi ngoái cổ lại phía sau nhìn ba mẹ đang mỉm cười và gật gù như thể khuyến khích tôi, nhìn các cháu cũng đang hóng mỏ như ngày xưa tôi đã từng. Chị Ba gọi tôi và tôi hăng hái sải cánh bay lên. Cơn gió lúc nãy hơi mạnh giờ có vẻ mạnh hơn gấp mấy lần, nó suýt cũng cuốn phăng tôi. Gió không còn đơn thuần là mát, mà là lạnh và thổi rất mạnh, như thể ông trời gom những thau gió khổng lồ và tạt từng cơn vào mặt và cánh của tôi. Gió ép nước mắt tôi trào ra, hai cánh rã rời muốn cụp xuống, nhưng nghe tiếng anh Hai, chị Ba và các cháu kêu phía sau, tôi cố sải cánh được chút nào hay chút đó. Chốc sau anh Hai gọi tôi trở xuống hoán đổi vị trí để anh lên đầu. Tôi bay xuống hàng thứ hai và ngoái nhìn ba mẹ, tôi bật khóc vì cơn đau rát và mỏi nhừ ở hai cánh như thể không gượng nổi nữa. Chị Ba lát sau thay phiên cho anh Hai chừng vài dặm thì tới nhà.


Về nhà tôi nằm thui thủi trong góc chẳng nói chuyện với ai. Các cháu cứ bay tới chỗ tôi hỏi thăm, tôi chỉ cười gượng rồi bảo các cháu ra ngoài để tôi nghỉ ngơi. Hai cánh của tôi xếp lại, gân cốt gần như đứt ra từng đoạn, đau nhức khủng khiếp. Mẹ bay vào, nhẹ nhàng lấy mỏ mổ nhè nhẹ lên đầu tôi. Ba tôi lát sau cũng vào. Tôi mở mắt sau khi đã chợp mắt được đôi chút, thấy ba mẹ và các anh chị quanh mình, tôi lại khóc. Lần này không phải khóc vì đau, mà vì tôi đã hiểu những gì trước đây ba mẹ và các anh chị làm cho tôi.


Chim đầu đàn vẫn là con chịu thiệt thòi vì phải gánh lực cản của gió rất mạnh. Vừa quan sát chính xác và cũng bay thật khỏe, nhất là phải đủ lì để chịu đựng những cơn đau. Giờ tôi đã hiểu ba mẹ và các anh chị gánh cho tôi những lực cản khủng khiếp ấy để tôi hưởng làn gió mát nhẹ ở đàng sau. Những trách cứ xưa kia cho là chán phèo nay không phải là thế nữa. Tôi hiểu rằng thời khắc còn được bay phía sau ấy là cả một ơn huệ mà cả nhà dành cho tôi. Vị trí đầu đàn, bản lĩnh, can đảm, trưởng thành, vinh dự… tất cả biến mất trong tôi, lúc này chỉ còn lại lòng biết ơn và sự quyết tâm trưởng thành để làm điểm tựa cho các cháu và con cái tôi sau này. Vâng! Phải biết tựa vào nhau mà sống. Loài chim chúng tôi không thể sống một mình, cũng chẳng thể vượt khó một mình, bầy đàn là sức mạnh của chúng tôi.


Vợ tôi đã sinh cho tôi những chú chim con dễ thương. Ba mẹ tôi đã không còn nữa. Giờ đây, tôi luôn giữ vị trí đầu đàn, thi thoảng vợ tôi lên thay vị trí ấy. Chẳng hiểu sao mỗi lần dẫn đàn như thế thì tôi… lại ướt nơi khóe mắt.


Little Stream

23 tháng 10, 2021

Truyện ngắn: TRUYỀN GIÁO

Cha Hải từng bước chân leo lên sườn núi cao. Cơn mưa chiều qua khiến con đường bình thường vốn đã khó đi lại, nay càng khó khăn di chuyển hơn gấp bội. Chiếc quần xắn cao hơn đầu gối và được định vị bằng hai sợi dây nilon cột rút để ống quần đỡ rớt xuống trong quá trình di chuyển. Một tay cầm chiếc gậy bằng gỗ để định vị và cố định hướng đi. Trán nhễ nhại mồ hôi. Thi thoảng cha dừng lại lấy mu bàn tay quệt những giọt mồ hôi suýt nhỏ vào mắt. Thở vài hơi hổn hển rồi tiếp tục hành trình.


-“A-ma Hải nhanh lên!”


Anh yao phu – một thanh niên trẻ người đồng bào thiểu số – đi trước đang vẫy gọi cha Hải nhanh chân cho kịp giờ dâng Thánh Lễ Chúa Nhật cho bà con.


-“A-ma biết không? Mấy tháng nay bà con trông Thánh Lễ lắm! Nôn nao cái bụng trông ngày a-ma lên.”




Cha Hải ngồi tạm trên mấy viên đá cạnh mép sườn núi, cầm chai nước suối uống vài hơi rồi đưa cho yao phu dẫn đường uống cùng. Nghe anh tâm sự, cha không trả lời, chỉ thinh lặng rồi mỉm cười, nụ cười hiền từ và dễ thương của người mục tử.


Thánh Lễ hôm ấy diễn ra trước sân nhà anh yao phu đã dẫn đường cha đi. Anh cũng được mọi người cắt cử chuyên lo việc mời, đón rước và dẫn đường cho các linh mục từ đồng bằng lên và xuống núi an toàn. Chiếc bàn gỗ thấp được dọn ra trước sân. Cha Hải lấy trong chiếc túi nhỏ của mình sách lễ, khăn trải bàn thờ, nến, chén thánh, nước, rượu và cả một ít kẹo bỏ vào túi áo để sau Thánh Lễ sẽ phân phát cho các em nhỏ. Thánh Lễ âm thầm chỉ vài chục người tham dự, những anh chị em quây quần quanh cha là những người đồng bào thiểu số, đa phần không rành tiếng Kinh trong giao tiếp, nhưng thưa đáp trong Thánh Lễ bằng tiếng Kinh lại rất sốt sắng. Hôm ấy là Chúa nhật Truyền giáo, cha Hải chia sẻ với anh chị em về tâm tình một người truyền giáo và lời mời gọi mọi người hãy trở nên những nhà truyền giáo cho anh chị em mình. Thánh Lễ đơn sơ mà đong đầy ý nghĩa.


-“A-ma lại xức dầu cho mẹ con đi! Bà sắp chết!”


Một phụ nữ bồng con nhỏ đến nói với cha sau Thánh Lễ.


-“Nhà con ở chỗ nào?”


-“Không xa đây lắm! A-ma theo con! Con dẫn đường cho!”


Căn nhà ọp ẹp được dựng bằng lá. Một bên góc nhà là nơi đặt những ghè rượu, phía trên treo những quần áo và mùng chiếu. Bên góc nhà còn lại có một người phụ nữ lớn tuổi đang nằm thở thoi thóp. Đống lửa giữa nhà đã tàn và còn ít khói bay lên, có lẽ đã được đốt suốt đêm để sưởi ấm cho bà cụ.


-“Mẹ con bị sao?”


Cô con gái trả lời bằng tiếng Kinh lơ lớ:


-“Bị sốt. Xin thuốc thầy lang uống không hết. Bứt lá rừng nấu uống và xông cũng không hết. Gần hai tuần nay rồi! Càng lúc càng sốt cao kèm theo co giật với tiêu chảy.”


-“Sao không đưa mẹ xuống bệnh viện?”


-“Xuống núi khó quá! Ai đưa cho?”


Cô gái trả lời trong tuyệt vọng. Cha Hải quyết định đưa người phụ nữ xuống núi để vào bệnh viện chữa bệnh. Cô con gái đi theo phía sau xách nào quần áo và vật dụng cần thiết cho mẹ, đứa bé con của cô khóc inh ỏi. Bà cụ mệt nằm li bì gác hẳn cằm và cổ đặt trên vai cha, thi thoảng lên cơn ho vài tiếng. Không biết sao con đường lúc nãy cha đi khó khăn, giờ lại dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Có thể do đi xuống dễ hơn đi lên, mà chủ yếu là do muốn đưa bà cụ tới bệnh viện kịp lúc.


-“Xin lỗi cha! Tụi con ráng hết sức rồi!”


Bác sĩ với vẻ mặt ủ dột chia buồn với cha sau gần mấy tiếng đồng hồ cố cứu bà cụ.


-“Đưa bà tới quá trễ, chúng con không làm gì được cha à!”


-“Bà cụ bị sao vậy bác sĩ?” cha Hải hỏi vị bác sĩ.


-“Bà bị sốt phát ban, nhưng do điều trị không kịp thời, thêm nữa để ở nhà quá lâu và uống thuốc không đúng, giờ sau hai tuần ảnh hưởng đến não và phổi, không cứu được nữa đâu cha!”


Cha Hải bàng hoàng trước tin báo của bác sĩ, cô con gái đứng đàng xa nhìn chằm chằm vào nét mặt hoang mang của cha. Có lẽ cô không biết mẹ bị gì, nhưng đoán được phần nào tình hình nguy kịch của mẹ.


-“Bác sĩ kiểm tra kỹ chưa?”


-“Dạ! Kỹ rồi! Con đã kiểm tra mấy lần kết quả như nhau. Có lẽ tranh thủ với bà phút cuối, chứ con sợ không qua hôm nay đâu cha.”


Cha Hải lặng lẽ hồi lâu, quay sang nhìn cô con gái của bà cụ như muốn nói tình trạng bệnh của mẹ cô, nhưng không dám mở lời. Cha ôm chiếc cặp nhỏ vào phòng nơi bà cụ đang nằm.


-“Bà Thị Heng ơi!”


Bà cụ từ từ mở đôi mắt yếu ớt nhìn, phải rất lâu sau bà mới nhận ra người đứng trước mặt mình là ai. Bà kháp từng hơi yếu ớt: “A-ma … Hải!”, Cha Hải xúc động vuốt lại mái tóc bạc của bà cho ngay ngắn, rồi nhẹ nhàng nói:


-“A-ma xức dầu cho bà, xin Chúa ban ơn chữa lành cho bà nha! Rồi cho bà rước Mình Thánh Chúa nhé!”


Bà cụ gật đầu nhẹ nhàng đồng ý. Cha Hải gọi cô con gái của bà cụ vào cùng cha đọc kinh cho mẹ của cô. Thánh Lễ an táng của bà cụ được cử hành tại thánh đường của giáo xứ nơi cha Hải đang quản nhiệm. Nhiều anh chị em đồng bào thiểu số từ miền núi đã lặn lội xuống đồng bằng để dự lễ của bà.



-“Thưa Đức Cha! Con muốn xin được lên vùng đồng bào thiểu số và ở hẳn trên đó với họ…”


Cha Hải đã mạnh dạn trình bày và xin ý kiến của Đức Giám Mục giáo phận. Cha cũng chia sẻ lý do vì sao lại đưa ra những quyết định như thế. Sau sự ra đi của bà Thị Heng, cha nhận ra anh chị em mình nơi đó đâu chỉ cần những Thánh Lễ mấy tháng một lần, nhưng họ cần người đồng hành với họ. Người mục tử lấm mùi chiên là người dám sống cùng và sống với chứ không chỉ trốn tránh hoặc làm cho xong nhiệm vụ dâng lễ của mình. Hôm vừa rồi may sao kịp xức dầu cho bà Thị Heng, nhưng còn bao nhiêu người đã và sẽ ra đi âm thầm như thế mà cha không kịp giúp họ về mặt thiêng liêng. Cha muốn đến và ở với bà con như người bạn đồng hành, mong giúp bà con thăng tiến đời sống đức tin, muốn sống trên núi với bà con.


-“Nhưng… nhiều cha đã từ chối hoặc chỉ đến ở vài tháng vì… Liệu cha có dám…”


Đức Cha còn ậm ờ chưa biết đặt vấn đề thế nào, cha Hải nhanh nhảu đáp:


-“Thưa Đức Cha, với những gì con vừa trình bày, con xin tình nguyện. Con thực sự khao khát dấn thân với những anh chị em nơi đây.”


Cuộc nói chuyện gần hai tiếng đồng hồ, cha Hải được sự đồng ý của Đức Cha, chưa đầy tuần sau cha đã nhanh chóng chuyển lên nhiệm sở mới, lo việc trong khu vực truyền giáo nơi anh chị em đồng bào trên vùng đồi núi. Đức Cha cắt cử một cha khác về thay vị trí của cha Hải lo việc nhà xứ.


Cha Hải đến xin chính quyền cho cất một ngôi nhà nhỏ giữa bà con, đồng thời xin phép được giảng đạo cho bà con. Hay tin bà con vui mừng giúp cha dựng căn nhà nhỏ nhanh chóng. Từ ngày cha hiện diện giữa bà con, Thánh Lễ hàng ngày được cử hành trước sân nhà cha. Nhiều hôm trời mưa cha căng tấm bạt trước cửa để bà con dự lễ không bị ướt. Ngoài ra, cha thăm viếng và chăm sóc mục vụ các gia đình giáo cũng như lương, lo cho bà con hết tình.



-“A-ma ơi! Có thơ!” Anh yao phu trẻ chạy vào đưa bức thư cho cha Hải.


Khuôn mặt của cha có chút nghiêm nghị, cũng có vẻ bất ngờ. “A-ma được sai đi chỗ khác!” Cha nói với người đàn ông sau khi đọc bức thư.


Rảo một vòng quanh nhà thờ mới được xây dựng, cha Hải nhớ những khuôn mặt thân quen đã cùng chung tay chung sức cất nên nguyện đường này. Không tốn chút tiền nào để thuê nhân công, vì đó là đóng góp tình nguyện của các anh thanh niên trong làng gồm giáo cũng như lương, còn các chị phụ nữ lo cơm nước. Gần cả năm thì nhà nguyện cũng xong. Cha Hải lại rảo một vòng quanh nhà bà con. Cha không nói gì về chuyện mình sắp rời đi, chỉ thăm hỏi như mọi khi. Ghé nhà bà Thị Heng, cha nói với cô con gái:


-“Đọc kinh cầu nguyện cho mẹ nha con!”


Đứng trước bàn thờ Chúa và bức ảnh người phụ nữ thân thương mà chính cha đã cõng đi bệnh viện nhưng không cứu được, cha bắt kinh và cô con gái của bà cụ đọc theo. Đứa con trai của chị nay cũng biết đi cứng cáp, cũng khoanh tay trước bàn thờ bà ngoại để bi bô đọc kinh theo.


Tan lễ chiều, nhà nguyện khép hờ. Cha Hải đã sẵn sàng cho sứ mạng mới vào ngày mai. Chiều nay cha đã chào tạm biệt bà con, nhưng cha cố tình nói vắn tắt để bà con không thạo tiếng Kinh sẽ không nghe kịp. Cha không muốn thấy bà con khóc khi tiễn mình. Cha thường tâm sự rằng: “Đối với cha, điều đẹp nhất nơi anh chị em đồng bào thiểu số là nụ cười. Chúa ban cho họ có nụ cười tự nhiên vốn có sức trao ban bình an cho mọi người mà họ gặp gỡ. Chính cha cũng đã được nụ cười của họ cảm hóa mình rất nhiều.” Cha muốn ra đi âm thầm, muốn bà con mãi cười tươi trong bình an và hạnh phúc. Có một điều mà mãi sau này cha mới tâm sự: “Điều duy nhất mà cha ao ước khi chia tay bà con là… mong có một vị mục tử đến sau cha cũng thương bà con thật nhiều! Vậy thôi!”.


                                                                                        Little Stream

19 tháng 10, 2021

Truyện ngắn: HOÀI LANG

 (Nhớ về “Dạ Cổ Hoài Lang”)


“Bác Cao Văn Lầu ơi!

Cháu cũng muốn kể cho bác nghe…”.


1.

Chị Chín nhìn ra khung cửa. Ánh trăng tối hôm nay vằng vặc chiếu vào tấm phản mà chị đang nằm. Trằn trọc chờ cơn buồn ngủ đến nhưng chị không tày nào chợp mắt được. Chợt nhìn khuôn mặt của mình hiện lên trên tấm vách gỗ, hốc hác với cái cằm nhọn hoắc, chị giật thót mình ngồi dậy, úp mặt vô hai đầu gối khóc ròng.


-“Chưa ngủ hả con? Khuya rồi sao ngồi đó?”


Bà Hai vén tấm màn bước từ phòng ngủ ra tấm phản chỗ chị nằm. Thấy chị cúi gầm mặt khóc, bà nói:


-“Trời! Khóc gì khóc gì hoài. Thôi! Nín đi con!”


Chị buông tay ôm lấy cổ bà Hai rồi nghẹn ngào kể lể, tiếng kể lể trong đêm khuya như tiếng buồn của cung Dạ Cổ mà anh hay đờn cho chị ca.


“Từ là từ phu tướng, báu kiếm sắc phán lên đàng, vào ra luống trông tin bạn, năm canh mơ màng…”




2.

-“Thưa ba má! Hôm nay tui dắt em Mai về gửi lại ba má! Thú thiệt tui thương Mai hết lòng, nhưng em không sanh được cháu cho ba má tui ẵm bồng. Giờ ba má ruột bắt tui lấy vợ mới để nối dõi tông đường. Xin ba má thương hiểu và bỏ qua cho tui. Trước lệnh bề trên, cãi lời là bất hiếu…”


Chị Chín đứng cạnh anh Chín, khoanh hai tay cúi mặt, im thin thít với những giọt nước mắt lã chã. Thi thoảng chị lại giật nhẹ người vì cơn khóc mà chị cố nén.


Anh Chín quay sang nhìn chị rồi đưa bàn tay vuốt gò má gầy nhom của chị.


-“Mai à! Em hiểu cho tui! Giờ tui không làm gì được trước lệnh ba má phán xuống. Phận làm con phải biết vâng lời. Tui thương em mà rứt lòng không đặng. Dù tui có lấy mấy người vợ đi nữa, cũng không ai tui thương bằng em. Tui xin em, nếu thương tui thì…”


Chị Chín mím môi không nói gì, nấc lên trong tức tưởi. Anh đứng lên ôm chị thật chặt.


Anh ra về, chị ôm cột nhà dòm ra hồi lâu, nước mắt giàn giụa, cho đến khi dáng anh xa dần. Ba má đứng phía sau dỗ dành con gái, thương đứt ruột mà biết làm sao.


3.

–“Mai! Đi chợ với má!”


Chị đang ngồi thẩn thơ trước hàng ba, buồn ngẩn ngơ, nghe má gọi chị đứng vội chạy xuống bếp lấy cái làn rồi chạy theo bà Hai.


Con đường quê hôm nay cũng khác nhiều quá! Hôm anh dẫn chị về, chị buồn đến độ không đủ tỉnh táo để quan sát mọi thứ xung quanh mình. Mãi tới hôm nay, khi mọi chuyện đã đỡ hơn, chị Chín mới nhận ra sự đổi khác nhiều đến như vậy.


Góc cau gần vườn chú Bảy giờ đã bị đốn, má biểu hôm trước có đám cưới con gái chú Bảy, thằng Cò – con trai út của chú Bảy – leo lên cây cau bẻ xuống để đưa lên bàn thờ cúng ông bà. Xui sao nó té xuống từ đọt cau, nhưng cũng may mắn vì nó chỉ bị gãy chân. Ông Bảy quyết định đốn luôn cây cau.


Chị Chín không để ý tới chuyện của thằng Cò, chỉ để ý tới chuyện con gái ông Bảy có chồng. Chị tặc lưỡi:


-“Lại làm dâu! Lại sanh con! …” 


Có lẽ không có tiếng tặc lưỡi nào tê tái cho bằng tiếng tặc lưỡi của người trong cuộc. Mấy gốc dừa gần bờ kinh đã dần chết vì già nua, trơ trọi thân cây lù lù nằm giữa nắng chang chang, còn vài tàu dừa đã héo queo nằm xuôi theo thân, sao mà xơ xác quá thể. Con rạch hôm nay cũng cạn hẳn, nước gần xấp xấp đáy, nên những con cá sặt, cá bống và cá lòng tong quẩy đuôi tới đâu, chị nhìn rõ mồn một tới đó.


– “Đép tới nước cạn rồi… bây ở đâu?” Chị muốn hỏi lũ cá tội nghiệp dưới kinh.


-“Ê! Bà nhìn con nhỏ đó kìa! Con Mai con bà Hai đó! Ăn ở làm sao thất đức mà bị chồng bỏ, giờ về với ổng bả rồi.” Thấp thoáng xa xa, chị nghe những phụ nữ bán cá, bán thịt ngoài chợ nói về mình.


-“Nghe đâu không sanh con được. Bởi tui nói cha mẹ sống chắc thất đức lắm mới tới nông nỗi!”


Chị sợ bà Hai nghe sẽ buồn lòng, chị bắt chuyện để nói với bà Hai nhằm át đi những tiếng xì xào không hay. Chợt đâu mấy đứa nhỏ đang chơi giữa chợ thấy chị thì la làng:


-“Lêu lêu! Đồ chồng bỏ! Đồ chồng bỏ! Đồ gái hư!”


Mọi ánh mắt trong chợ dòm về phía hai mẹ con, bà Hai cúi gầm mặt, chị cũng cúi gầm mặt. Mẹ con quay trở về nhà với cái làn không.


4.

Ông Hai ngồi trên ghế giữa nhà, miệng hớp miếng trà nóng, gọi chị Chín ra rồi nói:


-“Mai nè! Ba tính vầy con coi đặng không? Giờ con ở nhà cũng khó lòng hết mặc cảm, mà ba má cũng mang tiếng tăm. Thân ba má thì không có gì đáng lo, nhưng danh tiếng cha ông không thể bị làm nhơ ố. Nhà chú Ba, em trai của má con, có xưởng may ở Sài Gòn. Thôi thì con chịu khó lên Sài Gòn làm việc cho khuất mặt khuất mày một thời gian. Dần dà con nguôi ngoai, bà con quên chuyện rồi hẳn về quê, con coi đặng không?”


Chị khoanh tay đứng trước ông Hai, đôi mắt giờ đây vô hồn như hai hòn đất nằm trên khoang má gầy hõm, cúi đầu vâng dạ, rồi trở vào phòng xếp đồ chuẩn bị ngày mai lên đường sớm.


Tối hôm ấy, cả nhà ngồi với nhau trước bàn thờ tổ tiên. Ông Hai đại diện gia đình xá nhang lên tổ tiên, bà Hai và chị khoanh tay đứng hai bên, mắt nhìn bàn thờ tổ đăm đăm.


Chị Chín quỳ xuống trước ba má, vừa khóc vừa nói:


-“Thưa ba má! Con xin lỗi ba má. Vì con không nên bột nên đường mà ba má phải mang tai tiếng. Con biết những ngày qua má khóc rất nhiều, còn ba thì bận lòng không kể xiết. Vậy con xin dập đầu tạ lỗi cùng ba má.”


Chị vừa cúi xuống thì ông Hai đỡ chị dậy:


-“Thôi Mai! Ba má cũng có lỗi chứ đâu chỉ con. Ba má không lo lắng cho con được tới nơi tới chốn cũng là thiếu sót, con đừng buồn ba má nghen!”


Cuộc nói chuyện đêm ấy kéo dài tận khuya. Cả nhà không ai chợp mắt được dù chỉ là một chút. Quá khuya, chị Chín nằm trên tấm phản, ánh trăng lại dọi qua khung cửa sổ, chị ngó vô tấm vách, lần này chị không sợ hãi như lần trước nữa, mà cất lên câu hát thì thầm: “Em luống trông tin chàng, ôi gan vàng quặn đau í a…!”. Có tiếng thút thít nhưng không phải của chị, mà của bà Hai từ phòng trong phát ra. Rồi tiếng ông Hai dỗ: “Thôi! Nín đi bà! Để nó đi!”.


5.

–“Thưa ba, thưa má con đi!” chị khoanh tay cúi đầu giã từ ông bà Hai. Rồi quay lưng che vội vành nón lá, có lẽ chị đã khóc mà sợ ông bà Hai thấy. Bà Hai muốn bật khóc, nhưng cố mím lại để con gái đi cho nhẹ nhàng. Ông Hai quay mặt về bàn thờ tổ tiên, hướng nhìn thành khẩn như cầu mong tổ tiên chúc lành cho chị.


Xe đò chạy gần cả ngày trời, chị đã tới đất Sài Gòn. Bước xuống xe với mỗi chiếc giỏ nhỏ xíu là vài bộ đồ và ít tiền vận lưng. Chị dò theo địa chỉ má ghi trong tờ giấy nhỏ mà tìm tới nhà chú Ba.


-“Ai gọi đó! Đợi chút!”


Một người đàn ông đứng tuổi, khuôn mặt gần như y hệt má, chạy ra mở cửa.


-“Cô… Cô là…”


–“Dạ cho con hỏi, có phải đây là nhà chú Ba Hiển, em trai bà Hai Vang không?” chị hỏi người đàn ông.


-“Đúng rồi! Tui đây! Cô là ai mà sao biết tui?” người đàn ông hỏi lại chị có chút nghi ngờ.


-“Dạ, con là Mai, con gái bà Hai Vang. Má con biểu lên gặp chú Ba rồi gửi cho chú bức thơ này”.


Người đàn ông nhận thư từ tay chị, mở ra và đọc. Rồi ông nhanh nhảu nói:


-“À Mai! Vô đi con. Chú Ba – em trai của má con – đây!”


6.

Cuộc sống của chị bắt đầu những ngày đầy sóng gió. Vợ của chú Ba là một người phụ nữ khó tính và ghen tuông khét tiếng. Chị chẳng thể nói chuyện hay hỏi chú Ba hay bất cứ người nào trong nhà chuyện gì, vì cứ mỗi lần mở miệng là thím Ba lại:


-“Mày lại dụ dỗ chồng tao chớ gì! Tao biết mà!”


Chị âm thầm cúi đầu vì biết thân ở nhờ ở đậu, quê cũng không ở được, lên Sài Gòn phải lo chịu nhọc nhằn xíu mới mong qua khỏi khó khăn này. Lúc đầu chị còn tự trấn an và bỏ qua, nhưng dần dà những bực bội, khó chịu tăng lên lúc nào không biết, có lần chị đã cãi lại thím Ba, và kết quả bị đuổi ra khỏi nhà ngay lập tức. Chú Ba năn nỉ mấy cũng không được, đành chạy theo dúi ít tiền vào tay chị, xin lỗi vài câu rồi trở vào nhà.


Chị nhìn lên bầu trời nắng dọi chói chang, tự hỏi về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Nhiều lúc chị cũng không hiểu mình được sinh ra trong cuộc đời để làm gì? Có phải để lớn lên chút chút, lấy chồng, không sanh được con thì bị trả về nhà ba mẹ ruột, bị người ngoài thóa mạ, rong ruổi tới xứ lạ, rồi bị vu oan và lại cù bất cù bơ như thuyền không bến.


Chợt những lúc như thế này, chị nhớ anh Chín da diết. Nhớ những cái ôm ấm áp mà anh dành cho chị, những cử chỉ, lời nói nhẹ nhàng mà có lẽ đi khắp nơi cũng không tìm được người chồng thứ hai như thế. Nghĩ tới điều đó làm chị khóc, và mỗi lần khóc là chị nhẹ đi phần nào nỗi buồn đang dâng lên dầy đặc trong lòng. 


7.

Sau nhiều ngày lang thang, chị được một người phụ nữ trạc tuổi má đưa về. Bà biểu là thương cho hoàn cảnh của chị rồi hứa tìm cách giúp đỡ cho chị về quê. Giọng nói của bà ngọt ngào, khuyên lơn rất có tình, nhưng chị đâu biết đã rơi vào cạm bẫy của những kẻ mua bán thân xác phụ nữ. Chị đã bị lừa và không thể thoát ra.


-“Má mày! Đồ con đĩ! Đã làm đĩ mà không biết chiều khách!”


Chị lại ôm mặt úp vào hai đầu gối mà khóc. Trên mình không một tấm vải che thân. Gã đàn ông vừa thỏa mãn thú tính trên thân xác chị, nhưng khi thấy khuôn mặt và đôi mắt vô hồn của chị, gã không chịu nổi nên phát ra tiếng chửi đay nghiến.


Đây cũng không phải là lần đầu tiên chị bị những gã đàn ông vũ phu mắng nhiếc, thậm chí bị đánh đập sau khi họ đã thỏa mãn thú tính trên thân thể mình. Mỗi lần như thế, chị đau đớn cho thân phận là con gái của mình. Chị nhớ ông bà Hai, xin bà chủ viết đôi dòng về thăm hỏi mà bà không cho. Có lần chị lén viết thì bị bọn tay chân của bà bắt gặp. Chúng dần cho chị một trận nhừ thân.


Từ ngày bị bắt tiếp khách kiếm tiền, chưa có đêm nào chị chợp mắt ngon giấc. Những cơn mơ về gia đình, quê hương và anh Chín cứ xoay vần trong tâm trí khiến chị mệt mỏi và sầu não. Có hôm chị mơ thấy ông bà Hai lên Sài Gòn kiếm mình, bị người ta lừa gạt hết tiền nên hai ông bà phải lang thang. Có hôm lại thấy ông bà Hai gặp được chị, được ông bà dẫn về quê nhà, nhưng tỉnh lại chỉ còn nước đọng lại trên khóe mắt. Có hôm lại thấy anh Chín…


8.

Đêm nay, sau ca tiếp khách như mọi khi, chị thấy mệt mỏi bần thần vô kể. Có lẽ liều cần sa mà gã đàn ông vũ phu vừa nãy bắt chị dùng quá nặng. Một mình lầm lũi trở về căn gác nhỏ xíu, tắm rửa sạch sẽ rồi lăn lên tấm chiếu rách trên gác xép. Chị thiếp đi thật mau.


-“Anh! Sao anh tới đây?” Trong mơ chị thấy anh Chín tới gặp mình.


-“Anh rước em về, Mai à!” câu trả lời của anh Chín khiến chị vui nức lòng.


Nhưng vừa dứt tiếng, anh lại lùi dần vào khoảng không vô tận, chị gọi mãi anh không trả lời. Chị khóc lóc thảm thiết, trong đau đớn chị cất lên bài Dạ Cổ quen thuộc, như khúc ca bi đát về cuộc đời của chị:


-“Từ là từ phu tướng

Báu kiếm sắc phán lên đàng

Vào ra luống trông tin nhạn

Năm canh mơ màng

Em luống trông tin chàng

Ôi gan vàng quặn đau í a…”


                                                                                            Tiểu Tuyền

17 tháng 10, 2021

Truyện ngắn: NÍU...!

 -“Cô là ai?”


Bà Hai với hai gò má bầu bĩnh và đôi mắt hồn nhiên hết sức. Miệng móm mém không còn chiếc răng nào, nên thi thoảng cứ đưa hai môi bập bập như thể luyến tiếc chiếc răng cuối cùng đã rụng cả năm về trước. Thu Lan- con gái thứ hai của bà– vừa lấy lược chải đầu cho má, vừa nhại lại giọng vui vui trả lời bà Hai:


-“Con là con Lan Lùn, hồi đó má đẻ con ở bụi chuối, má nhớ hông?”


Bà Hai nhăn nhăn trán suy nghĩ, hồi sau lại hỏi:


-“Ủa! Má cô là ai vậy cà?”


Lan chỉ biết lắc đầu cười trừ:


-“Là cái bà mà con đang chải tóc đây nè.”


-“Ủa! Là tui hả cô?”


-“Đúng rồi! Là cái bà đó đó!”


-“Tui đẻ hồi nào mà hổng nhớ à hén!” Câu chuyện cứ thế kéo dài mà chẳng có hồi kết.




Năm nay bà Hai đã gần bước sang tuổi tám mươi. Đi đứng vẫn còn rất khỏe, việc ăn uống với bà không là chuyện khó. Thu Lan thay cho chị em ở cạnh để lo cho má tuổi già, chăm sóc cho má gần hai mươi năm nay. Bà Hai bắt đầu quên quên nhớ nhớ từ chục năm trước, dần dà tính cách của bà như một đứa trẻ ngây ngô và dễ thương. Mỗi ngày chứng hay quên của bà càng nhiều, đến nỗi Thu Lan – đứa con kề cận ngày đêm bên mình – bà Hai cũng chẳng nhớ. Nhiều lúc cô nghĩ: “Thôi! Má vậy cho khỏe chứ… lo lắng cả đời rồi!”. Hồi Thu Lan mới về ở với má, thuở ấy bà Hai còn rất minh mẫn, thì bà cứ nhắc hoài mấy đứa con ở xa. Mỗi độ nhắc người cũ, chuyện cũ thì bà lại khóc. Con cả của bà – Chị Hai của Thu Lan đã lập gia đình ở Mỹ, lâu lắm mới về thăm má một lần. Đa phần là gọi điện thoại để nghe tiếng má. Em trai kế và em gái út của Thu Lan cũng có gia đình và lập nghiệp tận Sài Gòn. Cuộc sống cũng chật vật khó khăn, lo làm việc nuôi gia đình riêng nên mấy tháng mới tranh thủ về thăm má một lần. Nhưng chủ yếu là cho mấy đứa cháu về thăm bà chứ chẳng khi nào đủ cả vợ chồng, họa chăng chỉ có dịp lễ tết mới có đủ các thành viên trong gia đình.


Thu Lan sống độc thân nên không phải lo chuyện gia đình riêng như chị em mình. Trước đây cô đi làm công nhân ở một xưởng may, khi đó bà Hai còn khỏe mạnh và tự lo cho mình được. Nhưng sau đợt bà Hai bị trợt té thì Thu Lan thấy không ổn, cô quyết định về với bà Hai để ở với bà cho đến cuối đời. Bà Hai vui lắm khi có con gái về ở cùng. Thu Lan lo chăm mảnh vườn trái cây cùng với ao cá sau nhà. Ao cá do ba để lại còn rất nhiều cá, cô tựa vào số cá ấy để có tiền xoay sở cho bà Hai. Cuộc sống giản dị của hai má con ở vùng quê nghèo. Cô hiểu việc chăm má không phải là hy sinh thay cho anh chị em, nhưng là bổn phận chữ hiếu phải vuông tròn. Nhiều lúc cô tâm sự với chị em ở xa qua điện thoại: “Má lo cho chị em mình cả đời rồi! Việc lo cho má tuổi về già là đúng mà! Chị em cứ lo việc của mình đi! Đừng bận tâm việc ở quê làm chi!”. Thu Lan là vậy, mộc mạc, chân quê và dễ thương biết nhường nào.


-“Má ơi! Ăn cơm nha! Con dẻ cá cho má!”


Bà Hai nhìn mâm cơm với mấy con cá rô phi kho quẹt, hới lên mấy tiếng:


-“Trời! Đồ quỷ này mà ăn gì?”


Thu Lan cười tít mắt trước điệu bộ của bà Hai, vì cô biết món cá rô phi kho quẹt, với canh mồng tơi nấu tép là món mà má thích nhất. Không bao giờ má ăn món này dưới hai chén cơm. Thu Lan nói lại vài câu chọc:


-“Để coi hén! Coi dở hay ngon.”


-“Hới! Thứ quỷ này dở ẹt, tui ăn hoài ăn quỷ, tui biết cô làm hổng có ngon đâu.”


Khuôn mặt chê bai với những nếp nhăn của tuổi già lại gợi lên cho Thu Lan bao nhiêu điều để nhớ. Cô nhớ hồi nhỏ mình cũng không chịu ăn cá, chỉ đòi ăn thịt, mà nhà nghèo đào thịt đâu ra. Có bà Hai là chiều con nên lén ông Hai mua thịt nấu cho con ăn, chứ mọi khi ông không cho bà chiều con như vậy. Có lần ông phát hiện thì cấm ngặt: “Từ đây đép tới tui mà thấy bà mua thịt cho nó ăn, tui đổ cho chó ăn hết!”. Bà Hai ngậm ngùi múc thịt cho vào chén Thu Lan, ông Hai giận bỏ ra cửa châm điếu thuốc rê kéo mấy hơi, rồi than: “Trời! Nhà đã nghèo mà còn đua đòi!”. Thu Lan biết ba má đều thương và lo cho mình, mỗi người mỗi cách, nên chỉ thấy mỗi mình có lỗi. Nhưng ngẫm lại thương nhất là má vì ngậm ngùi chịu ba rầy rà mà lo cho mình ăn ngon. Nghĩ tới đó, Thu Lan chảy nước mắt.


-“Ủa! Tui chê vậy mà cô khóc hả?”


Sẵn đà bà Hai hỏi, Thu Lan trả lời:


-“Khóc chớ, tại má chê đồ con nấu!”


Bà Hai quay sang vỗ vai rồi nói: “Thôi cô! Tui ráng ăn cho cô vui nha! Dở cũng ăn hén!” Đúng như Thu Lan đoán biết, trưa hôm đó bà Hai ăn hai chén canh và hai chén cơm, chảo cá gần như hết.


-“Trời! Con nhỏ khùng khùng vậy mà nấu ăn cũng được má hén!” Cô hỏi chọc bà Hai.


-“Ờ! Nhìn khùng khùng vậy mà kho cá cũng có lý chớ bộ.”


Bưng mâm cơm xuống bếp, Thu Lan cười không ngớt vì tính cách dễ thương của bà Hai.


Lịch trình một ngày của Thu Lan gần như kín mít, mà hầu hết là túc trực bên bà Hai. Chỉ trừ lúc bà ngủ là cô tranh thủ ra vườn làm việc, rồi nhanh chóng trở vô với má. Cô biết bà Hai muốn làm gì và làm vào giờ nào, vì tính cách của bà hồi còn minh mẫn rất đúng giờ, nên dù quên nhiều nhưng thói quen ấy vẫn đi vào tiềm thức. Thậm chí, có hôm làm cơm trễ bà Hai lại nhắc: “Cô gì ơi! Sao chưa cho tui ăn cơm?” Thu Lan mới ngoài vườn chạy vô, quần còn ống cao ống thấp, áo đẫm mồ hôi hỏi: “Ủa! Cô gì là cô nào vậy cà?”. Bà Hai có hơi mắc cỡ vì không nhớ tên cô gái ở chung với mình, nên ậm ờ trả lời: “Ờ thì… Cô Mít, cô Xoài gì đó!” Thu Lan chạy lại xoa hai bờ vai của bà Hai, “Trời ơi! Đẻ con ở bụi chuối mà cứ kêu Mít với Xoài. Buồn à nha!” Có hôm bà Hai còn quên cả việc mình mới ăn cơm xong, Thu Lan vừa dọn chén xuống thì có người tới thăm bà Hai, người đó hỏi: “Thím Hai ăn cơm chưa?” Bà Hai lắc đầu chối bai bải: “Trời! Con nhỏ ác dễ sợ, nó chưa nấu cơm xong nữa. Cái con gì đó ơi!… Mày nấu cơm xong chưa?  Nấu cho khách ăn với!” Người khách biết bà Hai đã lẫn, nhìn quanh bà thấy mấy hạt cơm còn rơi trên ván mà Thu Lan chưa kịp lau dọn, người khách đã biết chuyện. Giả vờ ủng hộ bà, người khách nói: “Trời! Cái con nó ác thiệt! Bỏ đói bà già muốn chết. Để tui gặp tui đánh nó cho thím nha, con gái gì hư thấy ớn.” Thu Lan dưới bếp nghe mà cười nắc nẻ. Chạy lên chào khách, vị khách giả bộ đánh vào lưng Thu Lan mấy cái: “Mày! Hư nghen con! Bỏ bả đói muốn chết!” Thu Lan giả bộ khóc, bà Hai bênh: “Thôi! Đừng đánh cổ! Tội nghiệp!” Cả nhà lại cười ồ lên vì tính tình dễ mến của bà Hai.


Mỗi tối, sau khi giăng mùng và đuổi muỗi rồi đưa bà Hai vô mùng ngủ, Thu Lan vẫn là người quạt cho má ngủ. Dù có quạt máy nhưng bà Hai không chịu sử dụng, vì lý do đơn giản: “Đồ quỷ này hổng có mát mẻ gì hết trơn hết trọi!”. Thu Lan chỉ cười rồi cầm quạt giấy quạt cho bà, bà khen: “Ờ! Cái này mới mát nè! Cô này hiểu ý tui ghê!”. Đợi khi bà Hai thiu thiu ngủ, cô mới lén mở quạt số nhỏ nhất, để thật xa tránh gió thổi mạnh vào người bà Hai. Cô nằm cạnh chiếc giường của bà Hai, vì sợ nằm chung giường khi cử động thì bà sẽ thức. Ngó qua khuôn mặt của má đang chìm sâu trong giấc ngủ, khuôn mặt hiền hậu, dễ thương với hai gò má bầu bĩnh, thi thoảng lại bập bập hai môi rồi ngáy đều vào giấc ngủ, cô lại cười khúc khích. Có hôm thấy khung cảnh ấy dễ thương quá, Thu Lan chạy sang vén mùng hôn lên gò má đầy đặn của bà Hai, bà giật mình mở mắt từ từ, miệng lầm bầm: “Cái cô này, tối không để tui ngủ làm gì vậy?” Thu Lan biết mình vừa làm má thức giấc, cô nhanh chân chạy lại tắt bóng đèn ngủ, căn phòng tối thui, bà Hai láp giáp vài câu không nghe ai trả lời rồi ngáy đều. Có đêm, Thu Lan nghe rõ mồn một má gọi tên từng đứa con một trong mơ: “Diễm Hương – Thu Lan – Thái Đỉnh – Diễm Quỳnh”. Cô giật mình vì hai lý do. Thứ nhất vì má không hề quên các con, trong vô thức và trong tim của bà vẫn luôn có hình ảnh các con. Thứ hai, lâu lắm rồi, má chẳng khi nào gọi tên mình, vậy mà bây giờ… Cô khóc thút thít trong đêm.


Có những buổi sáng, vừa mở mắt ra Thu Lan đã thấy bà Hai đứng bên cạnh lấy tay đét vào mông cô: “Dậy coi! Trời ơi! Giờ này mà còn nướng!” Thu Lan cười vì tuổi thơ của cô đã từng như vậy. Sáng nào cũng bị bà Hai đét vài roi trước khi rửa mặt, thay đồ đi học. Ngày xưa cái đét mông còn mạnh tay, còn bây giờ sao nhẹ hều. Mà cũng khác là ngày xưa đét hết sức thì cô mới mở mắt dậy, còn bây giờ, má chỉ rờ nhẹ là cô đã dậy rồi. Nhiều buổi sáng cố tình nằm thêm chút nữa để bà Hai đét mông nhiều hơn, nhưng những cái chạm nhẹ dần, bà Hai bỏ ra ngoài, miệng không quên biểu: “Cái thứ lì như trâu. Nướng khét nghẹt mà còn nướng!” Thu Lan vội chạy theo ôm chầm lấy bà Hai từ sau lưng, hôn lấy hôn để lên gò má của bà Hai. Ráng dứt ra không được, bà đành xụi lơ cho Thu Lan hôn đã rồi thôi.


Thu Lan chăm cho bà Hai rất kỹ, từng chi tiết một đều được cô quan tâm và chuẩn bị trước. Nhiều lúc bà bị hốc cơm, sặc nước hay suýt té ngã, Thu Lan sợ đến xanh mặt. Cô biết sức khỏe của người già sẽ xuống dốc rất mau sau những biến cố không hay, nên lúc nào cũng kè kè bên má như hình với bóng. Nhiều khi bà Hai đi trước, Thu Lan đi sau lưng bà nhại lại tướng đi của bà, vừa chậm chậm, lưng hơi cúi, miệng móm mém, môi bập bập, tay run run… bà Hai không hay Thu Lan đi sau lưng mình và đang nhại lại hành động của mình, nên bà cứ hồn nhiên thế mà đi đầu làng cuối xóm. Bà con thấy thì cười tí ta tí tửng: “Trời! Hai má con nhà này vui hết biết!”.


Chiều nay, hai má con ngồi bên hè nói chuyện với nhau, Thu Lan chải tóc cho bà Hai. Mái tóc dài và bạc trắng phếu, mấy sợi rụng cuốn vào lược sau mỗi lần chải, Thu Lan gom lại thành một nhúm để bên cạnh chiếc ghế bà Hai đang ngồi. Cuộc trò chuyện của hai má con cứ loay hoay như mọi khi, không hồi kết. Gió chiều mơn man thổi nhúm tóc rụng bay đi. Theo quán tính, Thu Lan với tay chụp lại, nhưng không kịp. Cô quên rằng đó là những sợi tóc rụng bỏ đi. Nhưng cô muốn níu mớ tóc ấy, như níu… khi còn có thể.


                                                                                        Little Stream

10 tháng 10, 2021

Truyện ngắn: BƯỚC...!

 “Uyên..!” Tiếng nói đầu tiên mà Khang cất lên sau một hồi thinh lặng. Uyên ngồi đối diện, cúi gầm mặt, tay cầm cán muỗng khuấy nước trong ly liên tục. Uyên không nói gì với Khang, Khang thì chẳng biết mở lời thế nào với người mình yêu.


Khang và Uyên quen nhau từ khi hai đứa học chung lớp từ Học kỳ II lớp 10. Uyên là học sinh trường huyện được chuyển lên trường tỉnh học. Học lực của Uyên khá tốt, nhưng vì vào chương trình của trường nửa chừng, nên cần có bạn khá hơn trong lớp đồng hành. Vóc dáng của Uyên cao to, hai má phúng phính với lúm đồng tiền, mắt kính tròn tròn như chú gấu Panda, và cái miệng hay cười đã hút hồn Khang ngay lần đầu thấy Uyên. Càng may mắn hơn khi cô giáo chủ nhiệm xếp cho Uyên ngồi cạnh Khang trong lớp, vì cả hai đứa đều to con như nhau. Tình bạn bắt đầu từ đó và tình yêu cũng dần chớm nở trong lòng hai bạn trẻ.


Uyên chăm học và siêng năng, trong lớp thường hay phát biểu và hỏi bài nên nhanh chóng bắt kịp nhịp học của lớp. Mang danh là người đồng hành với bạn, nhưng chẳng mấy chốc Uyên đã vượt hơn học lực của Khang nhiều lần. Nhưng cả hai đều không quan tâm mấy đến chuyện ai hơn ai, mà quan trọng hơn hết là giúp nhau trong học tập và xây đắp tình cảm mà hai đứa dành cho nhau.




Những giờ nghỉ học chuyển ca, Khang và Uyên vẫn thường hay ra quán nước quen thuộc, gọi những món mà cả hai cùng yêu thích. Khang biết Uyên thích bánh khoai mì, nên mỗi lần hẹn đi uống nước là cậu lại chuẩn bị vài cái bánh khoai mì còn nóng ấm. Chỉ ngồi nhìn Uyên ăn bánh đã khiến lòng cậu hạnh phúc biết chừng nào. Những dịp lễ, tết hay valentine, cả hai vẫn có dịp đi chơi cùng nhau, tình cảm ấy vẫn trong sáng và nguyên vẹn. Mãi cho đến đầu năm lớp 12, khi cả hai bắt đầu dự tính cho mình chuyện tương lai sắp tới:


-“Khang nè! Tương lai chúng ta sẽ làm gì?”


Khang nhìn Uyên đang ngấu nghiến miếng bánh khoai mì, đôi mắt trầm tư suy nghĩ, Khang hỏi ngược lại Uyên:


-“Uyên định làm gì chưa?”


Ậm ờ hồi lâu, Uyên trả lời:


-“Uyên muốn học tiếp! Muốn học ngành gì đó liên quan đến nghệ thuật.”


Khang mỉm cười nhìn Uyên. Đúng rồi! Uyên rất có khiếu nghệ thuật. Hát hay, vóc người đẹp và có chút gì đó liều lĩnh chứ không nhát đảm như bao cô gái khác. Chính Uyên đã tâm sự với Khang điều này vào những ngày đầu vào chung lớp. Trong lớp chỉ cần nhắc tới văn nghệ thì lúc nào Uyên cũng xung phong đầu tiên. Hát cũng được, múa cũng được, mà phụ họa cũng được, miễn sao có làm gì liên quan đến nghệ thuật là được. Khang gật gù ngắm người mình yêu, nhưng đôi mắt của cậu có chút gì đó đượm buồn:


-“Khang! Hai đứa mình…”


Khang giật mình trước câu nói của Uyên. Tình yêu hai đứa giành cho nhau là chân thành, và suốt hơn hai năm qua đôi bạn đã tính chuyện tương lai. Tiếp tục học và sau đó sẽ lập gia đình. Cả hai sẽ có những thiên thần bé nhỏ gọi Uyên là mẹ và gọi Khang là ba. Những dịp cả hai chở nhau đi chơi, Khang và Uyên đã nghĩ đến ngày ra mắt ba mẹ hai bên. Cả hai đều hiểu rằng suy nghĩ đó không là chuyện vu vơ của tuổi học trò như bao người suy nghĩ. Đó là tình yêu thật sự mà cả hai khó có thể dứt ra.


-“Sao nhìn Khang buồn vậy?”


Khang không trả lời, chỉ mỉm cười rồi nói: “Uống nước đi Uyên! Còn bánh nữa nè!”



-“Thưa mẹ! Con đi học mới về!”. Khang chào mẹ và vào phòng riêng đặt chiếc cặp lên bàn. Nhanh chóng đi rửa mặt rồi ra ăn cơm trưa với mẹ.


-“Khang! Sáng nay mẹ đi lễ, cha Sở gọi mẹ lại hỏi con có tham dự kỳ thi vào lớp dự tu của giáo phận không? Sắp tới có mở kỳ thi, nếu con muốn thì nhắn cha sớm để cha lo hồ sơ cho con.”


Khang giật mình, bỗng đâu những điều lúc nãy Uyên nói lại hiển hiện trong đầu rõ mồn một. Mẹ thấy Khang không nhúc nhích, vội lấy tay khều vai con trai:


-“Khang! Nghe mẹ nói gì không con?”


-“Dạ!… Dạ nghe! Mẹ ăn cơm đi, từ từ con suy nghĩ thêm”.


Buổi tối hôm ấy, Khang không thể nào nhắm mắt ngủ sớm như mọi hôm. Trong đầu của cậu lúc này hiện lên hai hình ảnh khiến cậu dường như nhắm mắt lại là nhìn thấy. Một là Uyên, và một là hình ảnh lúc mình được mặc chiếc áo chùng thâm.


Khang vốn được sinh ra trong một gia đình đạo đức, ngay từ bé cậu đã khao khát dấn thân trong đời tu dù lúc đó chưa hiểu nhiều. Chỉ biết mình có khao khát vậy thôi. Khang đã chia sẻ điều này với cha sở và với gia đình mình. Dần dà thời gian trôi mau, ấp ủ ấy vẫn còn nhưng có vẻ không còn đủ mạnh như lúc bé. Khang vẫn tham dự Thánh Lễ mỗi khi không bận đi học, vẫn là một giáo lý viên nhiệt tình và yêu mến các em thiếu nhi, là một anh huynh trưởng gương mẫu cho các em noi theo, là một người con nhiệt thành của họ đạo trong nhiều hoạt động. Nhưng cạnh đó Khang cũng thấy khuôn mặt dễ thương và đẹp đẽ của Uyên hiện lên trong đầu mình. Đồng thời, Khang cũng nhớ những lời tâm sự của hai đứa mỗi khi có dịp đi uống nước và đi chơi cùng nhau. Khang chưa cho mẹ biết về tình yêu của cậu và Uyên, nhưng có lẽ mẹ cũng đoán được phần nào khi nhìn con trai mình hay buồn và suy nghĩ từ hôm mẹ báo tin.


Uyên không cùng đức tin Công Giáo, có lần Uyên hỏi Khang về đạo Công Giáo, và câu hỏi sau đó là: “Nếu Uyên lấy một người Công Giáo thì phải như thế nào?” Khang biết Uyên muốn nói tới ai và cậu trả lời cách chân thành: “Vậy thì Uyên vô đạo, học giáo lý và rửa tội, sau đó làm phép hôn phối”. Uyên cười với Khang và bảo rằng đã thấy lễ cưới trong nhà thờ rất đẹp và trang nghiêm, Uyên thích như thế. Câu trả lời của Uyên sau buổi gặp ấy là: “Uyên sẵn sàng vô đạo”. Sau đó cô tặng cho Khang một nụ hôn trên má.


Đầu năm lớp 11, Khang cũng tâm sự với Uyên về khao khát đi tu của mình. “Tu hả? Khang đi tu làm ông cha nhà thờ ấy hả? Thôi cho tui lạy Khang!” Một câu nói tưởng chừng nói chơi với nhau, nhưng Uyên gần như hiểu vấn đề qua nét mặt nghiêm túc của Khang. Uyên hỏi lại: “Khang! Đi tu sao?” Khang mỉm cười trả lời: “Mình chỉ nói là muốn thôi mà, chứ đã đi tu đâu mà lo!” Uyên cười, đánh trống lảng sang một chuyện khác. Có lẽ sau buổi học ấy Uyên đã hỏi thăm bạn bè là người Công Giáo về chuyện đi tu. Vì những lần hẹn sau đó Uyên hỏi thăm Khang trúng phóc. “Đi tu là vô Đại Chủng Viện phải không?”, “Tu là mặc cái áo dài dài màu đen có dãy nút từ trên cổ xuống…; đi tu là học cái gì Triết học rồi Thần học; đi tu là…” Uyên ngập ngừng không nói tiếp, khang hỏi: “là gì?”… “là không có gia đình, sống độc thân”. Khang gật đầu xác minh “Đúng rồi! Uyên biết hết rồi còn gì?”. Uyên gọi tên Khang: “Khang! Không lấy vợ thiệt hả Khang? Còn tui…” Đó là lần đầu Uyên dám thổ lộ tình cảm với Khang. Khang mỉm cười, cười trong hạnh phúc.  


Nỗi dằn vặt không hề nhẹ trong suy nghĩ của Khang. Cậu cũng nghĩ đến những con người ở họ đạo mà cậu đang phục vụ. Rồi nhìn ra thế giới rộng lớn. Nơi đó có biết bao em nhỏ khao khát biết về Chúa. Bao nhiêu con người nghèo khổ trong họ đạo cần giúp đỡ. Khang không thể quên nụ cười thơ ngây và đầy ý nghĩa của các em thiếu nhi trong lớp giáo lý của mình, có lần một em đã nói: “Anh Khang ơi! Sau này anh làm linh mục nhé! Tụi em ủng hộ anh!” Khang chỉ cười rồi xoa đầu em, một em nhỏ tầm bảy tuổi mà đã biết chuyện. Khang cũng nhớ lời khuyên của các Cha, các Dì đến phục vụ họ đạo. Họ không thúc ép Khang đi tu, nhưng việc làm và đời sống của họ đủ làm gương mẫu cuốn hút cậu. Thêm những lần thăm nỏi, nói chuyện và làm việc chung, Khang thấy mình cũng khó để tách lìa suy nghĩ ấy.


Cầm chiếc điện thoại di động bật lên bài hòa tấu “Trông Cậy Chúa”, Khang mấp máy hát theo. Ngoài trời tiếng ếch nhai đã réo inh ỏi vì cơn mưa rào vừa kéo qua. Khang nghểnh mũi ngửi mùi đất đẫm hơi nước mua. Cái mùi mọi khi là khó chịu với cậu, nhưng ít ta cũng dễ chịu trong lúc này. Dễ chịu hơn nhiều lần so với nỗi băn khoăn mà cậu đang suy nghĩ. Điện thoại chuyển sang bài hát “Dấu Chân” của nhạc sĩ Thông Vi Vu, bài hát thứ hai liền kề bài hòa tấu. Điện thoại Khang có đúng hai bài hát này là được tải về, còn lại đa phần cậu hay nghe nhạc online. Một cảm giác bình an đến lạ khi nhẩm theo lời bài hát: “Hôm nao có dấu chân đôi, đó là Chúa đi bên tôi. Hôm nào còn một dấu chân thôi, là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi!”. Khang chợt nảy ra suy nghĩ: “Đúng rồi! Vì Chúa! Cần hướng về Chúa!”. Sau đêm đó Khang dành vài ngày ngồi trong nhà Chầu Thánh Thể của họ đạo để suy nghĩ, cuối cùng cậu đã đưa ra quyết định.



-“Uyên! Nhìn Khang nè!”


Uyên vẫn cúi mặt, nước mắt bắt đầu rơi. Tay vẫn khuấy nước trong ly. Cô thút thít một mình trong nỗi lạc lỏng. Khang hiểu tính cách của Uyên. Năm lớp 11, khi nhà Uyên có tang, cô cũng buồn như thế, mãi cả tháng sau cậu mới trò chuyện với Uyên bình thường được. Khang đưa bàn tay nắm lấy bàn tay Uyên đang đặt trên mặt bàn. Uyên muốn rút tay lại, nhưng Khang đã nắm chặt bàn tay cô trong tay mình. Vẫn cúi mặt, Uyên hỏi:


-“Sao vậy Khang?”


Câu hỏi và sắc mặt của Uyên làm Khang buốt cả người. Dù cô đã biết hết mọi chuyện. Biết vì sao có cuộc hẹn này. Biết vì sao Khang cả tháng qua sống trong thinh lặng nhiều. Vậy mà giờ đây cô vẫn hỏi: “Sao vậy Khang?”. Nghe lạnh lùng và đau lòng quá!


-“Khang muốn…”


Cậu không thể nói tiếp khi chứng kiến sắc mặt của Uyên diễn biến theo hướng tiêu cực như lúc này. Một cuộc đấu tranh khủng khiếp diễn ra trong đầu Khang. Nói hay không? Thà một lần nói rồi thôi, còn hơn dây dưa thì thêm khổ và thêm khó cho nhau. Thôi thì nói rồi tìm cách an ủi Uyên sau.


-“Khang muốn… đi tu!”


Uyên ngước mắt nhìn Khang. Nước mắt lưng tròng. Ánh nhìn đầu tiên từ lúc vào quán nước cho tới giờ. Giọng của Uyên cứng rắn hỏi:


-“Khang muốn xa tui!”


Khang lắc đầu nhè nhẹ, muốn nhận cũng không xong, mà muốn chối cũng không được. Tâm trạng của Uyên đang đối diện thì chính Khang cũng đã đương đầu cả tháng nay. Không trách Uyên được vì con gái thì đâu dễ chấp nhận, chứ huống chi là người mình yêu thương. Khang nói:


-“Uyên nghe Khang nói nhé! Khang thương Uyên, thương thiệt lòng. Không có gì tách rời tình yêu của Khang dành cho Uyên. Nhưng… Có một tình yêu khác lớn hơn, Uyên à!”


-“Khang quen một người khác?”


-“Không! Sao lại quen người nào khác ngoài Uyên. Tình yêu khác mà Khang muốn nói ở đây là tình yêu dành cho người nghèo, trẻ em mồ côi, những phận người cù bất cù bơ mong có hạnh phúc. Uyên hiểu không?”


-“Nhưng Khang làm được gì cho họ?”


-“Không làm được gì cả Uyên à! Vì con người ai cũng giới hạn thì làm được gì. Khang chỉ muốn làm người bạn đồng hành với họ. Vậy thôi!”


-“Đồng hành thì cả đống người, mắc chi tới Khang mà Khang đi lo chuyện bao đồng. Khang còn tui để lo mà!”


-“Uyên! Mình không sống ích kỷ như vậy được Uyên à! Sống cho đi chứ đâu nhận riêng mình, Uyên không nhớ câu đó sao?”


-“Ngụy biện! Tất cả là ngụy biện!”. Tiếng nói cuối cùng trước khi Uyên bỏ đi. Khang lặng lẽ nhìn ly cà phê dần tan trắng nhách. 


Uyên khóc. Khang cũng khóc. Những buổi học sau đó là những buổi học lặng ngắt. Ra chơi Uyên tụ tập với các bạn nữ thay vì trò chuyện với Khang như mọi hôm. Khang lặng lẽ xoay cây bút trên chiếc bàn. Bánh khoai mì Khang vẫn để trong cặp. Chắc đã nguội nhưng biết làm sao để đưa cho Uyên ăn. Khang biết chắc có đưa thì Uyên cũng không ăn hay vứt vào thùng rác ngay lập tức.



-“Mẹ ơi! Con phải làm sao?”


Đứng trước đài Đức Mẹ sau giờ tan lễ chiều. Tận dụng bóng chiều sắp tắt và chuyển dần sang bóng tối. Khang khóc. Khóc để không ai thấy. Nhưng trên sân thượng, cha sở nhìn thấy Khang lau nước mắt. Nhẹ nhàng bước ra sân, cha tới bên Khang vỗ nhẹ vai cậu: “Chuyện gì vậy Khang? Nói cha nghe?”


Cậu tâm sự trong nước mắt. Cha Sở nghe xong thì thinh lặng hồi lâu, lát sau cha đề nghị:


-“Bây giờ cha con ta lần chuỗi Mân Côi nhé! Xin Đức Mẹ chỉ cho con đường đi, chỉ cách làm cho con”


Lời kinh râm ran, thi thoảng nghe những tiếng nấc vốn là dư âm của những giọt nước mắt khi nãy. Sau giờ kinh ấy, Khang thấy nhẹ lòng, chào cha ra về. Cha không quên dặn Khang: “Nếu cần người đọc kinh cầu nguyện chung, cha luôn sẵn sàng mọi lúc!”


Mối tương quan của Khang và Uyên ở lớp đỡ lạnh lẽo hơn. Có lẽ ngày qua ngày Uyên dần quen và nỗi đau phần nào nguôi ngoai. Khang lén đặt một bịch bánh khoai mì nhỏ bên ngăn bàn của Uyên. Lòng cứ hồi hộp không biết cô phản ứng thế nào. Uyên đưa tay xuống hộc bàn lấy quyển tập ra ôn bài, cầm phải bịch bánh, Uyên kéo ra nhìn, rồi quay sang nhìn Khang, cô cười. Khang hạnh phúc vô ngần với nụ cười ấy. Sau hơn một tháng im bặt tiếng. Khang vội nói: “Uyên ăn đi! Bánh còn nóng!”. Uyên lấy một miếng đưa cho Khang, “Khang cũng ăn với tui cho vui!”. Trên đường về, Khang ghé ngang nhà thờ, đọc kinh và tạ ơn Đức Mẹ. Khang chạy vào nhà xứ gặp cha sở báo tin. Cha mỉm cười: “Đức Mẹ nhận lời con rồi hén!”



Kỳ thi tốt nghiệp Trung học Phổ thông cả Uyên và Khang đều đạt điểm khá tốt. Uyên nộp đơn xin nhập học tại một trường nghệ thuật trên Sài Gòn. Khang đi theo con đường mình đã chọn. Ngày chia tay để Khang lên đường vào lớp dự tu, Uyên nhìn Khang thật chăm chú. Cô tâm sự với Khang nhiều điều:


-“Khang nè! Xin lỗi Khang vì thái độ của tui hôm đó nha!”


Khang lắc tay, ngắt ngang lời Uyên:


-“Đừng! Tui phải xin lỗi Uyên mới phải, tui mới có lỗi mà!”


Uyên ngắt lời Khang:


-“Không! Uyên có lỗi vì ích kỷ, muốn giữ Khang lại cho riêng mình. Thời gian qua Uyên hỏi thăm bạn bè Công Giáo nhiều lắm, biết được những khó khăn và chông gai mà Khang chọn lựa là gì. Khang ráng lên nha! Hành trình dài và nhiều khó khăn lắm. Uyên vẫn luôn ủng hộ Khang.”


Buổi nói chuyện hôm ấy kéo dài hàng giờ đồng hồ, nhưng với cả hai bạn trẻ sao thời gian lại thoảng qua nhanh quá!


Khang cười thật tươi, cám ơn Uyên vì đã hiểu chọn lựa của mình. Cậu vui vì món quà lớn lao mà tình bạn mang lại. Khang và Uyên sống với tình bạn chân thành, tình yêu chân thành và nay, dù không đến được với nhau, cũng vẫn là tình bạn trong sáng chân thành. Cái tâm đối xử với nhau cách chân thành thì dù có phong ba bão táp cách mấy cũng không quật ngã được. Buổi chia tay đầy hạnh phúc. Khang và Uyên bắt tay và ôm nhau lần cuối. Họ không quên bảo nhau rằng: “Mãi là bạn nhé!”.


Little Stream