26 tháng 7, 2021

Tản mạn: TUỔI GIÀ

 (Đôi dòng cảm nghĩ về Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô

nhân ngày Quốc tế Ông Bà và Người Cao Tuổi lần thứ Nhất)[1]


***


Nhân ngày Quốc tế Ông Bà và Người Cao Tuổi lần thứ Nhất, Đức Giáo Hoàng (ĐGH) Phanxicô, qua vị phát ngôn viên là Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, đã tuyên bố cách thẳng thắn không né tránh rằng: “Ông bà và người già không phải là đồ thừa của cuộc sống, không phải là đồ vụn vặt bỏ đi. Họ là những mẩu bánh quý giá còn sót lại trên chiếc bàn cuộc sống và vẫn có thể nuôi dưỡng chúng ta bằng một hương thơm mà chúng ta đã đánh mất, “hương thơm của ký ức”.” Đây quả là một điều đánh động nơi tâm hồn mỗi con người, đặc biệt với con người trong thời buổi hiện đại ngày nay. Thay vì những câu văn đầy hoa mĩ và trau chuốt, ĐGH đã phản ánh rất thực về não trạng phần đa người trẻ khi nghĩ về người cao tuổi, thậm chí là người thân trong gia đình.


Người Việt Nam vẫn thường hay nói “kính già già để tuổi cho, kính lão đắc thọ” hay “kính trên nhường dưới” nhằm khuyên nhắc nhau nhớ về truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời, về thái độ tôn kính của con cái với ông bà, cha mẹ và những tiền nhân có công nuôi dạy chúng ta. Không chỉ nhớ tới các vị khi còn sống mà cả khi đã qua đời. Những dịp lễ Vu Lan báo hiếu của Giáo hội Phật Giáo cũng gợi nhắc người phật tử về vai trò và vị trí của ông bà cha mẹ trong cuộc đời mỗi người. Giáo Hội Công Giáo cũng dành riêng ngày mồng Hai Tết để kính nhớ ông bà tổ tiên khi còn sống cũng như đã qua đời. Bàn thờ ông bà cha mẹ của người Việt Nam luôn đặt ở vị trí thể hiện lòng tôn trọng khi các vị đã qua đời. Hành động dâng hương, cầu nguyện mỗi ngày cũng hiệp làm một với ý nghĩa như thế. Rõ ràng, đây là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và nhiều tôn giáo trong việc dạy và thực hành kính trọng người cao tuổi. Tuy nhiên, dần dà theo thời gian những truyền thống ấy dường như rơi vào quên lãng.




ĐGH đã chỉ ra mấu chốt của sự quên lãng ấy trong bản văn giảng lễ của ngài: “Tôi lo lắng khi nhìn thấy một xã hội toàn những con người chuyển động liên tục, quá bị cuốn hút vào những công việc của riêng họ và không có thời gian cho một cái nhìn lướt qua, cho một lời chào hay một cái ôm. Tôi lo lắng về một xã hội nơi các cá nhân chỉ đơn giản là một phần của một đám đông vô danh, nơi chúng ta không còn có thể tìm kiếm và nhận biết nhau. Ông bà của chúng ta, những người đã nuôi dưỡng sự sống của chúng ta, giờ đây khao khát sự quan tâm và tình yêu của chúng ta; họ mong mỏi sự gần gũi của chúng ta. Chúng ta hãy ngước mắt lên và thấy họ, ngay cả như Chúa Giêsu nhìn thấy chúng ta”. Những biểu hiện mà ĐGH  kể trên có thể tóm gọn trong cách nói “xung đột giữa các thế hệ” theo diễn giải của ngài cùng trong bài giảng.


Những xung đột của thời đại có thể xảy ra trong tương quan người già và người trẻ, nhất là trong những thời khắc khó khăn để chu cấp cơm, áo, gạo, tiền cho cuộc sống. Có những đứa con đã không đủ kiên nhẫn để nghe cha mẹ già khuyên nhủ đôi lời trước những thất bại của cuộc sống. Có những tranh cãi mà phần thắng chắc chắn thuộc về đứa con vì họ có sức và có lý để cãi trong khi người già thì không. Đó là chưa kể tới những lúc người già đến lúc quên trước nhớ sau, trí óc không đủ minh mẫn để biện phân trắng đen, thì vấn đề còn đi xa hơn nữa. Chắc hẳn những clip hoặc video về cảnh bạo hành cha mẹ già cách thô bạo, cụ thể như: đút những muỗng cơm cách vội vã khiến họ sặt sụa trào nước mắt; những cái tát không hề nhẹ vào thân thể cha mẹ già khi họ than vãn hoặc rên la; thậm chí có những cú đấm đá như hành xử theo kiểu giang hồ với một cụ ông hoặc cụ bà không còn sức chống cự… có lẽ không nhất thiết phải trưng dẫn nguồn của những hành động ấy ra đây, vì… những điều ấy tràn lan trên trang mạng và báo đài.


Sách Huấn Ca đã dạy về điều này từ lâu: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.” (x. Hc 3,12-13). Hôm nay, ĐGH không ngần ngại nói thẳng “người già không phải là đồ thừa của cuộc sống, không phải là đồ vụn vặt bỏ đi.” Đọc đến điều này cũng đủ để khiến nhiều người đau nhói, bởi lẽ ĐGH đang nói bằng chính tâm thức và cảm nghĩ của một người già – một vị giáo hoàng 84 tuổi – chứ không phải cái nhìn phóng chiếu hay áp đặt. Ngài nói lên điều ấy để xin người trẻ cảm thông. Sự cảm thông ở đây không dừng lại ở mức độ tội nghiệp hay đáng thương, nhưng trên hết là thi hành trọn vẹn điều răn thứ tư trong Mười Điều Răn mà từ xưa Thiên Chúa đã truyền dạy cho con người. Đó là một hành động hướng đến Thiên Chúa qua tha nhân cách cụ thể trong cuộc sống người trẻ.


Giá trị của người già nằm ở chỗ tình yêu và kinh nghiệm. Tình yêu là điều mà họ đã trao cho chúng ta ngay từ lúc chúng ta mới tượng thai trong lòng mẹ. Những nâng niu, chăm sóc, dưỡng dục để trở thành một con người trưởng thành như hôm nay hẳn không thể thiếu tình yêu của ông bà và cha mẹ, ĐGH khẳng định: “Tình yêu đó đã giúp chúng ta trưởng thành”. Đồng thời trong vai trò là người đi trước, người già luôn cho con cháu những kinh nghiệm quý báu. Kinh nghiệm vốn được kết dệt từ những thành công rực rỡ cũng như thất bại đau thương trong cuộc sống của họ. Họ truyền lại cho con cháu chỉ để mong chúng được thành công như họ và đừng mắc sai lầm như họ đã từng. Đôi lúc chúng ta vẫn hay gán cho những kinh nghiệm ấy cái mác của “lỗi thời” hay “lạc hậu”, nhưng vấn đề không phải là ở chỗ kinh nghiệm ấy cũ kỹ, mà vì chúng ta không biết hay không muốn biến cái cũ kỹ ấy theo những cách thức của thời đại mà thôi. Thêm vào đó, những lời động viên và khích lệ của người già cũng có vai trò quan trọng không kém trong việc giúp người trẻ triển nở cách trọn hảo hơn.


Một điều đáng lưu ý về vai trò của người lớn tuổi, theo lời gợi ý của ĐGH, rằng họ là “hương thơm của ký ức”. “Chúng ta đừng đánh mất ký ức được những người già gìn giữ, bởi vì chúng ta là những đứa trẻ của lịch sử đó, và nếu không có gốc rễ, chúng ta sẽ khô héo.” Lưu ý này cho người trẻ của thời đại cái nhìn chiều dài về lịch sử đời người. Rồi chúng ta ai cũng sẽ trở nên già nua, và sẽ đi vào cái được gọi là “lịch sử” hoặc “quá khứ”, nhưng cái phúc của chúng ta khi còn lưu giữ được cái gốc của mình là những lịch sử đáng trân trọng kia. Còn gì buồn hơn một cuộc đời không có lịch sử và gốc gác, bởi tựa như những đứa trẻ lang thang, bơ vơ và chẳng có gì để tự hào và biết ơn. Nghĩ đến đây, tôi được gợi hứng việc mình nên phải tạ ơn Thiên Chúa cách nghiêm túc vì đã cho tôi có được những gốc rễ vững vàng để tôi bám, tăng trưởng và sinh sôi như ngày hôm nay.


Tôi viết những dòng ngắn ngủi trên đây để cám ơn chân thành đến ĐGH Phanxicô, vị cha chung của Giáo Hội Công Giáo, một người cha già đáng kính. Là một người tín hữu trẻ, tôi học được bao điều về trách nhiệm và bổn phận đối với người lớn tuổi. Tôi muốn kết những dòng cảm nghĩ bằng loạt những câu hỏi của ĐGH, như điều thực tế để suy ngẫm trong mỗi ngày sống: “Còn chúng ta thì sao? Chúng ta thấy ông bà và những người cao tuổi của chúng ta như thế nào? Lần cuối cùng chúng ta đến thăm hoặc gọi điện thoại cho một người cao tuổi để thể hiện sự gần gũi của chúng ta và được lãnh nhận điều tốt từ những điều họ nói với chúng ta là khi nào?”.


                                                                                    Little Stream


[1] Những trích dẫn về bài giảng được trích từ nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2021-07/ngay-the-gioi-ong-ba-nguoi-cao-tuoi-lan-thu-nhat-rino fisichella.html?fbclid=IwAR31WbSjtskmp7TQJqosjOQzD1oCsaIDSoYJsNV8zZHcUHbj1xL8Xxi4ic8

25 tháng 7, 2021

Truyện ngắn: TIỄN...!

 Mặt trời gần đứng đỉnh ngọn dừa, đồng hồ đã gần mười giờ. Một vài đám mây trắng nho nhỏ trôi lững thững như những tấm vá tạm bợ vào lỗ hổng khổng lồ màu xanh. Nắng rọi trực diện. Rọi vào đoàn người đưa đám tang. Người có dù thì bung ra để che cho mình và những người bên cạnh. Ai có nón hoặc áo khoác thì đội lên đầu cho đỡ cái gay gắt. 


Ông Hai, chẳng dù chẳng nón, lủi thủi chống gậy đi đàng sau cha sở. Cái tuổi tám mươi khiến lưng ông còng nhiều. Râu dài ngoẵng. Tóc trắng phếch. Khuôn mặt ông méo mó và cặp mày xếp lại tạo thành hình chữ A choẹt. Môi run run thi thoảng lặp ba lặp bặp để làm ướt những chỗ khô nẻ.


Nhìn lỗ huyệt đã được đào sẵn và xây gạch xung quanh tạo thành hộc chữ nhật với các góc vuông vức. Cha sở mời mọi người làm dấu Thánh Giá, đọc Lời Chúa, rồi vừa rảy nước thánh vừa đọc:




-“Lạy Ðức Giêsu Kitô, nhờ Chúa ở ba ngày trong mộ, Chúa đã thánh hóa các ngôi mộ của những ai tin vào Chúa, và đã biến ngôi mộ trở thành dấu chỉ hy vọng vào lời hứa phục sinh, dù ngôi mộ đang cầm giữ thân xác chúng con. Xin cho bà Maria được nghỉ yên trong bình an cho tới khi Chúa đánh thức bà Maria dậy trong vinh quang, vì Chúa là sự phục sinh và là sự sống.


Sau đó bà Maria sẽ được thấy Chúa nhãn tiền và được thấy ánh sáng trong sự sáng của Chúa. Và nhận biết sự huy hoàng của Thiên Chúa, vì Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.”


Nhấn mạnh đầu gậy xuống mặt đất, hai bàn tay ông trùm lên phía đầu còn lại của chiếc gậy, với toàn bộ sức lực còn lại trong người. Vợ của ông – Bà Hai- sắp được đưa xuống chiếc huyệt kia. Ông ước gì người nằm trong chiếc quan tài và sắp bị chôn vùi cũng không phải là bà Hai, mà là ông. Đối diện trước mặt ông là một quan tài bằng gỗ cồng kềnh với những đường kẻ dọc xếp tầng từ trên xuống. Màu nâu đen của gỗ quan tài gợi nhắc ông Hai nghĩ về thân phận bụi đất của kiếp người. Bà Hai trở về với thân phận tro bụi của mình. Một ngày nào đó khuôn mặt khả ái với những nếp nhăn đầy phúc hậu, từng thớ thịt và xương cốt cũng trở thành bụi tro – hình hài nguyên thủy trước khi Thiên Chúa dựng nên bà.


Cha sở đọc lời nguyện cuối cùng trước khi quan tài được đưa xuống lòng đất:


-“Vì Chúa đã gọi bà Maria ra khỏi thế gian về với Chúa, chúng ta gửi gắm thi thể bà Maria vào lòng đất vì chúng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Nhưng Ðức Giêsu Kitô sẽ thay đổi thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Ngài trong vinh quang, vì Ngài đã sống lại, là trưởng tử của kẻ chết.


Chúng ta hãy phó thác người thân yêu của chúng ta cho Thiên Chúa, để Người ấp ủ trong bình an, và cho thân xác ấy chỗi dậy trong ngày sau hết.”


Tiếng kèn trổi lên hòa với tiếng trống giục liên hồi, quan tài bà Hai được đưa xuống từng chút một rồi đặt xuống hai gờ được xây song song dưới đáy huyệt. Cộng đoàn hát bài thánh ca cuối cùng trước khi đội an táng bắt tay vào việc. Ông Hai lặng người trước sự vĩnh biệt. Ông không khóc, chỉ đứng mím chặt đôi môi móp méo và khô nẻ. Mọi người nhìn mà thương hại cho cuộc đời ông. Thời khắc xa bà Hai chắc chắc sẽ khó nguôi ngoai trong lòng ông.


Một người phụ nữ trung niên cầm một nhành hoa hồng trắng, tới gần ông khẽ nói:


-“Ông Hai ơi! Ông bỏ xuống huyệt cho bà đi! Người ta sắp lấp đất rồi. Xong bài kèn này là người ta lấp đó!”


Nghe tới hai từ “lấp đất” khiến ông Hai run lẩy bẩy.


-“Lấp đất?”


Trong trí của ông đang nghĩ tới thân xác đẹp đẽ của bà Hai trở nên rữa nát, thành những đống đất đen ngòm sau một thời gian được chôn cất. Ông chợt ngẫm tới từng cử chỉ, giọng nói của bà Hai khi còn sống, ông tiếc nuối vì điều đó không thể tìm lại được nữa. Tay cầm nhành hồng, tay kia cầm gậy rồi nhúng từng bước xập xệ và chậm chạp tới gần huyệt, hai thanh niên chạy lại đỡ ông vì sợ trong lúc xúc động ông sẽ ngã xuống huyệt. Đứng cạnh mép huyệt, bàn tay lần từ đầu gậy lần xuống thân rồi gần gốc gậy, ông từ từ ngồi chồm hổm, tay vẫn nhắm gậy, tay kia cầm nhành hồng thả xuống trên nắp quan tài.


Người ta nhìn từ phía sau lưng ông Hai thì thấy những sợi tóc lổm nhổm. Lưng áo bà ba ướt nhẹp mồ hôi. Cái đầu ông cứ gục gặc không ngớt.


-“Bà ơi! Bà bỏ tui thiệt hả bà!”


Không kìm được nữa, ông bật khóc như một đứa trẻ. Cha sở không cầm lòng trước cảnh tượng ấy, tiến tới gần chỗ ông Hai đang ngồi, cha đưa hai bàn tay ra nắm hai bả vai ông, rồi thỏ thẻ vào tai:


-“Thôi ông à! Để bà Hai đi! Để bà đi cho thanh thản nha ông!”


Cha đưa tay dụi mắt rồi nói tiếp:


-“Ông ráng sống khỏe mạnh cho bà vui, rồi cầu nguyện cho bà mau lên thiên đàng.”


Ông Hai gật đầu nhè nhẹ đồng ý với cha. Hai thanh niên lúc nãy giữ ông Hai đỡ ông đứng dậy, dắt ông trở ra chỗ nhóm người phụ nữ đang lần chuỗi Mân Côi:


-“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời…”


Ông Hai không đứng được nữa, tay vẫn giữ gậy, ngồi bẹp sát đất, mặt tái nhợt, râu và tóc ướt sũng mồ hôi, miệng mẩm đọc kinh khiến hàm râu giật liên hồi, đội an táng đang xúc từng vá đất cho vào huyệt. Chưa hết chục kinh thứ hai thì huyệt đã đầy đất, gần như mặt đất bình thường. Bầu trời vẫn nắng oi bức. Đám mây lặn mất tăm.


Kéo tay áo chùi nước mắt và mồ hôi, ông Hai nhìn sang chiếc huyệt đã đào sẵn bên cạnh mộ bà Hai. Ngưng khóc, ông nhìn chằm chằm chiếc huyệt còn trống rồi … mỉm cười…


                                                                                        Little Stream

17 tháng 7, 2021

Tản mạn: THƯ GỬI BẠN

 Gửi ông bạn rất thân,


Nhắn đôi dòng Facebook hỏi thăm sức khoẻ của ông, cách riêng trong tình hình dịch bệnh rất căng thẳng này, tôi thấy đồng cảm và quý mến ông nhiều hơn. Qua trò chuyện, tôi mới biết ông đã rất vất vả trong những ngày qua để có được miếng ăn và cái mặc cho vợ con ông. Ông đã giải thích với tôi như một cách để thoái thác hay để quên đi nỗi vất vả: “Hoàn cảnh chung mà ông! Chịu vậy!”.


Cùng ra trường, mỗi đứa đều có những lựa chọn rất riêng cho đời mình. Ông lập gia đình một vài năm sau đó, rồi có một đứa con bụ bẫm. Xem hình ông chụp với vợ và con mà tôi mừng cho ông, vì bạn tôi đã có một ơn gọi rất riêng cho đời mình, đang triển nở hạnh phúc trong chính ơn gọi ấy. Kiếm được một công việc sau ra trường không phải là chuyện dễ dàng với sinh viên tụi mình ông nhỉ! Vả lại bạn tôi lại là một người mạnh mẽ, không chịu “quỵ luỵ” bất kỳ ai để mau chóng “an cư lạc nghiệp”, nên ông vất vả nhiều để tìm được công việc ổn định. “Việc trái ngành!”, đó là câu trả lời khi tôi hỏi thăm công ăn việc làm của ông. Ông chấp nhận việc trái ngành học, miễn là việc chân chính và tự tay mình làm nên là được. Thế là một chàng thanh niên tốt nghiệp ngành ngôn ngữ lại chọn trở thành nhân viên kiểm toán, lật từ ngành nhân văn sang ngành kinh tế cứ như lật một tấm bánh tráng. “Mấy ngày đầu tôi phải ôn lại toán và cách dùng các hàm trong Excel đó ông! Ngày đầu cũng cực lắm, nhưng từ từ nó quen!”, đọc hàng tin ấy mà sao thấy bạn tôi vất vả quá! Bốn năm đại học cho tụi mình kiến thức và nhân bản, ra trường thì bổ túc thêm những lĩnh vực khác. Nể phục ông thật đây! Bạn tôi!




Nhưng chuyện đâu đã yên. Dịch Covid bùng lên đợt một, ông bị mất việc. Nhân viên dưới năm năm thì thuộc diện cho “nghỉ hưu non” vì công ty không kham nổi tất cả nhân viên, chỉ những thành viên cơ hữu lâu năm (cụ thể là trên năm năm) thì mới được giữ lại. Ông chao đảo trước những luồng tin dữ ấy. Thằng Cu Tí vẫn khóc ở nhà đòi sữa, tiền nhà tới tháng phải đóng, và bao nhiêu thứ phải lo. Nhiều khi vợ con vướng cảm sốt thì ông cũng sốt vó. Mới mất việc một tuần mà nhìn ông tiều tuỵ quá sức, trông già hẳn. Tuy vậy, sau những lần nhắn tin động viên ông, tôi vẫn thấy nơi ông chưa ngớt nhiệt huyết của một thanh niên trẻ, y như tính tình của ông hồi học ở đại học. Quyết tâm không cậy dựa vào số tiền lương cuối cùng, ông lên mạng kiếm việc, trái ngành hay thuận ngành không còn là điều quan trọng nữa, quan trọng là thằng Cu Tí và chuyện gia đình. Đeo vội chiếc khẩu trang, lên xe chạy một mạch tới nhiều nơi mà trên mạng đăng tìm người làm việc, ông vất vả mấy ngày liền để mong có chân trong một chỗ nào đó. Cuối cùng, tiếp tục làm công việc kiểm kê và thêm vào việc vận chuyển hàng hoá cho sân bay. “Trời! Trong lúc Covid này mà kiếm được việc mừng muốn chết! Đòi hỏi gì việc nặng hay nhẹ!”, ông nhắn với tôi như thế ngay khi có việc mới. 


Có lẽ điều mà ông thích nhất là mỗi tối được về nhà ôm thằng Cu Tí – con trai đầu lòng của vợ chồng ông – rồi tặng cho nó một tràng hôn, chụp một tấm hình mà post lên Facebook, khuôn mặt rạng rỡ còn ám chút mệt mỏi của một ngày làm việc căng thẳng với những con số và hàng hoá. Cứ mỗi lần thấy ông cười là tôi vẫn còn mừng khôn xiết. Ừ! Cuộc sống này vất vả quá phải ông nhỉ! Nhưng sức trẻ vẫn còn thì chưa muốn và chưa thể nghỉ ngơi phải không ông! Hôm trước ông khoe được tiêm vắc-xin rồi, vẫn còn đi làm tiếp trong mùa dịch, vậy là an tâm không như lần cho nghỉ việc trước. Ông mừng rỡ và hạnh phúc vì biết còn sức lo cho gia đình nhỏ bé của ông. Nhưng ngẫm tới những hy sinh vất vả của ông, tôi thấy quý mến bạn của mình hơn bao giờ hết. Nhớ giữ sức khoẻ, an toàn để trở về gia đình bình an sau mỗi ngày làm việc nghen ông. Chúc ông luôn vững mạnh, bình an để  làm điểm tựa cho gia đình mình.


Mong đại dịch Covid sớm qua đi, chúng ta lại tái ngộ một ngày không xa.


                                                                        Bạn rất thân của ông,

                                                                                    Silicat.

13 tháng 7, 2021

Truyện ngắn: HẠNH PHÚC

 Thuỷ nhấc bước chân yếu ớt của mình, tay phải cầm chắc chiếc gậy làm trụ đỡ cho đôi chân yếu ớt. Xập xệ từng bước tiến lên phía hàng ghế đầu tiên. Từ xa, khuôn mặt Thuỷ trông nhợt nhạt và tỏ sự mệt mỏi cùng với lo lắng, có lẽ đêm qua cô đã không chợp mắt được. Đầu tóc dù đã được chải nhưng vẫn len lỏi những sợi lỗ chỗ rối rắm. Hai mắt hoắm sâu vào bên trong với quầng thâm đen phủ quanh. Môi đã khô và nứt nẻ nhiều. Những lằn gân xanh trên cổ hiện lên mồn một khiến ai nhìn cũng rõ sự nghiêm trọng của bệnh tình. Thuỷ rướn người bước tới dù thể trạng còn khá yếu sau nhiều đợt nằm viện và điều trị trong bệnh viện. Chỉ khoảng gần hai trăm mét, nhưng phải mất gần mười phút cho việc di chuyển từ phía dưới lên hàng ghế đầu. Mồ hôi trán nhễ nhại cho thấy những nỗ lực của Thuỷ.


Vừa quỳ xuống vừa bặm môi vì cơn đau kéo đến sau những lần di chuyển mạnh, Thuỷ nhìn lên phía Thánh Giá chịu nạn và Nhà Tạm được đặt giữa nhà nguyện, cô đưa bàn tay phải run run làm dấu Thánh Giá. Cúi đầu cung kính chào Đấng đang hiện diện trước mặt mình. Ngọn đèn Nhà Tạm là một bóng đèn quả nhót, được đặt trong chiếc ly nhựa màu đỏ, tạo nên một màu đỏ thẫm tựa như màu máu. Nhìn chằm chằm vào Thánh Giá và Bí tích Thánh Thể, Thuỷ đưa hai bàn tay chấp lại rồi úp lên trán như cố trụ người cho vững. Lát sau như không thể quỳ tiếp được nữa, Thuỷ đứng dậy run rẩy và ngồi xuống chiếc ghế gỗ được đóng dính liền bàn quỳ trong nhà nguyện.




Tiếp tục quan sát Thánh Giá, Thuỷ thấy gương mặt Chúa Giê-su đâu khác gì gương mặt của mình. Giê-su thì bị đánh đập đến mức bầm dập, khiến khuôn mặt biến dạng và đầy vẻ mệt mỏi. Còn Thuỷ thì sau những đợt vô thuốc liên tục, tóc cô lần lượt tạm biệt lớp da đầu thân quen, khuôn mặt xanh xao nhợt nhạt như thiếu máu trầm trọng. Khuôn mặt của Giê-su và của Thuỷ đều hốc hác như nhau, những hốc hác khiến người ta sợ hãi cả cho người nhìn lẫn người chịu sự hốc hác ấy. Quan sát thân mình Giê-su trên Thánh Giá, Thuỷ thấy rõ những chiếc sườn lộ ra da thịt. Đó là kết quả của những trận đánh kinh hoàng và bị kéo căng hết mức để đóng vào những lỗ đinh có sẵn. Đưa tay sờ lên ngực mình, Thuỷ cảm rõ nỗi đau khi một bên vú đã bị cắt bỏ, và một phần bên kia cũng sắp sửa bị cắt vì ung thư đã di căn đến. Cô cũng cảm thấy sự suy sụp về thể trạng của mình qua những lần soi gương, khi thấy những chiếc xương lộ ra ngày càng rõ nét khiến cô phải sợ hãi tự thốt lên: “Mình ốm dữ vậy sao?”


Tiếp tục đưa mắt chiêm ngắm, thân hình trần trụi của Chúa Giê-su trên Thánh Giá đập vào mắt Thuỷ. Cái trần trụi không gợi lên trong cô chút suy nghĩ bẩn nhơ về nhục dục, nhưng gợi về bệnh tật và cái chết. Bao nhiêu lần cô cũng trần trụi nằm trên chiếc băng ca lạnh cóng, ban đầu còn chút sợ hãi tột độ, thậm chí có lúc cô đã ngất xỉu. Bác sĩ đã phải dừng cuộc phẫu thuật để làm cho cô tỉnh lại. “Thuỷ! Em có chịu nổi không?”. Trong ánh mắt yếu ớt, nỗi sợ vẫn còn, cô gượng trả lời: “Dạ nổi!”. Vậy là cuộc phẫu thuật được tiến hành vào ngày hôm sau, khi thể trạng và tâm lý của Thuỷ đã dần ổn định hơn. Cái cảm giác lạnh của chiếc băng ca và bầu không khí lạnh lẽo của phòng phẫu thuật ám ảnh Thuỷ đến tận xương tuỷ. Những lúc nỗi sợ kéo đến ồ ạt như thế, Thuỷ cố xoá bỏ bằng cách tưởng tượng đến cảnh dắt thằng Tiến – con trai của Thuỷ- vào siêu thị. Hơi lạnh của máy lạnh công nghiệp phả vào người hai mẹ con mát rượi, rồi nhớ tới lúc thằng Tiến cầm cây kem lạnh đút cho mẹ ăn, nhớ tớ đó rồi… cô ngất dần vì thuốc gây mê đã có tác dụng. Tỉnh dậy, Thuỷ chỉ thấy những con đau nhức khủng khiếp sau khi thuốc đã tan dần. Họng đắng, nói không ra tiếng, cử động không được, chỉ biết mình cũng đang trần trụi và được đắp tấm khăn trắng mỏng lên người. Thuỷ cũng biết bộ phận nào trên người mình vừa rời xa cơ thể vĩnh viễn, vì trước khi phẫu thuật đã được bác sĩ cho biết.


“Chúa! Vậy Chúa khác con chỗ nào? Cũng trần trụi, xanh xao, ủ dột, mệt mỏi…?” Câu hỏi ấy chợt bừng lên trong đầu Thuỷ. Một cuộc đàm thoại trong thinh lặng dần soi sáng cho cô. Một lần nữa nhìn Thánh Giá chịu nạn, Thuỷ dừng lại ở khuôn mặt Giê-su. “Không nhăn nhó! Đúng rồi! Không nhăn nhó!” Thuỷ nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-su trên Thánh Giá có hốc hác, xanh xao nhưng không hề nhăn nhó hay tỏ vẻ bực mình. “Chắc Người đã không than vãn, phải không Chúa?” và cô nhớ lại điều mà cha xứ hay giảng vào dịp thứ Sáu Tuần Thánh: “Giê-su chết không oán trách và than vãn!”. Thuỷ gật đầu đồng ý. Nhìn xuống bờ môi, hai làn môi khép lại cách tự nhiên mà không gắng gượng như tỏ lộ một sự hài lòng tuyệt đối. Những chiếc xương sườn có dữ dội, nhưng vết giáo đâm cạnh sườn cho Thuỷ nghiệm ra nơi đó phát xuất Máu và Nước đã tuôn tràn để cứu chuộc linh hồn cô. Thân hình trần trụi nằm trên Thánh Giá, nếu nhìn kỹ, như thể trước đó không có gì là quằn quại và đau đớn. Một dáng nằm nhẹ nhàng, gục đầu nhẹ, hai tay giang ra khiến Thuỷ thấy mình dần được xoa dịu. Nhưng cơn đau trong người cô đang cảm được một hiệu năng thần linh nào đó tác động vào. “Sao vậy Chúa? Sao Chúa lại chết trong nhẹ nhàng, thanh thản? Con cũng muốn vậy?”


Ao ước nhỏ bé của Thuỷ là thế. Muốn chết cách nhẹ nhàng thanh thản và không vướng bận bất cứ điều gì. Sợ hãi bệnh tật, tâm lý suy sụp, tinh thần dần xuống dốc, thằng Tiến – con của Thuỷ- ở lại một mình vì cha nó chết từ hồi nó được hai tuổi, nợ chưa trả, cha mẹ già ở quê có một mình và mắc nhiều bệnh tuổi già… Nghĩ tới đó, Thuỷ chợt sợ hãi. Nỗi sợ hãi khiến cô nặng lòng sau những phút được an ủi thiêng liêng. Tiếp tục hướng thẳng trực diện lên Thánh Giá, vẫn chằm chằm nhìn lên khuôn mặt của Chúa Giê-su, không ngơi nghỉ. Suy nghĩ về câu hỏi vì sao Chúa lại chết trong nhẹ nhàng và thanh thản như thế. Trong khoảng lặng của nhà nguyện, Thuỷ nghe tiếng vọng của những y tá gọi tên bệnh nhân, tiếng người bệnh nói chuyện với nhau, cô cũng nghe tiếng ai đó vẳng vọng sát tai mình: “Thuỷ à! Thể xác đau yếu là điều con không điều khiển được! Nhưng tinh thần thì không như thế! Chỉ cần con sống hạnh phúc, hẳn tinh thần cũng hạnh phúc, và dầu thể xác có đau yếu gấp mấy đi nữa thì chẳng tổn hại đến tinh thần hạnh phúc.”


“Bệnh nhân 4456 – Nguyễn Thị Thuỷ – Tiền Giang”. Thuỷ giật thót mình sau tiếng vọng và liền sau đó là tiếng gọi tên mình. Cô bật đứng dậy, làm dấu Thánh Giá rồi vội vàng bước ra. Bước đi không nặng nề như trước mà có vẻ dễ dàng hơn. Thuỷ siết chặt cây gậy trên tay, miệng thầm thì: “Cố lên! Thuỷ ơi! Đợt thuốc cuối rồi!”.


                                                                                        Little Stream

10 tháng 7, 2021

Truyện ngắn: LÉN...!

 Cầm cây sắt có cái đầu nhọn hoắc nhỏ xíu, nó cạy ổ khóa cách điêu luyện. Tầm năm lần đưa đầu nhọn vào rồi khoáy trong ổ khóa, thì cánh cửa đã tự động bật ra mà không cần bất kỳ lực đẩy nào. Đưa mu bàn tay quệt mồ hôi nhễ nhãi trên trán và gò má, bệt lên trên mái tóc, rồi nó đưa bàn tay ướt nhẹp mồ hôi xuống áo mà lau cho khô. Trời tối không chút ánh sáng nào rọi vào ngõ cụt này… dù đêm nay là đêm rằm. Khuôn mặt ốm nhom và chiếc cằm nhọn hoắc chẳng thua gì mũi nhọn của cây sắt cứ mờ ảo cử động trong bóng tối.


-“Không ai ở nhà! Chắc gom kha khá đây!”.


Nói xong nó lấy tay đẩy cánh cửa ra từ từ, bước chân vào nhà, vai xốc cái bao to. Mùi nhang từ bàn thờ tỏa ra thơm phức xộc thẳng vào lỗ mũi nó, mùi trầm hương phả ra tạo nên một không gian bình yên như một ngôi chùa hay một điện thờ. Nó đưa mũi hít một hơi dài. Nhìn lên bàn thờ, dưới ánh đèn dầu mờ mờ nó thấy tấm hình của một người đàn ông râu dài. Tấm hình có lẽ được họa bằng chì nên chẳng biết tóc ông có bạc hay không. Cạnh tấm hình là chiếc lư hương nhỏ như cái chén và hai chân đèn, nó vội vàng lùa cái lư hương và hai chân đèn vào bao, cố nhẹ nhàng để không gây ra bất kỳ tiếng động nào. Mồ hôi trên trán nó vẫn chảy rất nhiều, nó tự hỏi:




-“Quái! Sao trời hầm hì dữ!”


Chợt nó nghe từ phía sau tấm màn tiếng động: “cộc… cộc… cộc…”.


-“Chết! Có người!”.


Nó tự thông báo với mình rồi vội vàng lợi dụng bóng tối và núp sát góc tủ để tránh bị phát hiện. Một người phụ nữ lớn tuổi bước ra, tay phải cầm chiếc gậy dò đường tạo nên tiếng “cộc…cộc…cộc…” nện lên sàn nhà. Tay trái bà nắm chặt khung gỗ chỗ tấm màn lần ra bên ngoài. Buông khung gỗ ra bà đưa tay quờ quạng, lần theo chiếc gậy gõ trên nền nhà. Bà không mở đèn. Hình như… bà bị mù.


-“Cốp!”


Tiếng gậy đụng vào chân ghế gỗ đặt đàng trước bàn thờ. Nó giật mình vì tiếng chạm ấy. Rồi bà lại lần vài bước, tay trái đặt lên thành ghế, lấy gậy dò thêm tiếng “cốp!” nữa là trúng chân tủ bàn thờ. Với bàn tay trái chạm lấy mép bàn thờ, bà lần từ mép sang trung tâm bàn thờ, rồi lần tiếp sang bên góc phải là nơi đặt hũ nhang. Chân bà mò mẫm bước tới và đá trúng chân nó đang ngồi thu lu trong góc phải bàn thờ cạnh tấm vách gỗ. Cảm thấy vừa đá trúng cái gì đó mềm mềm, bà tự hỏi:


-“Ủa! Sáng giờ mình có đặt gì ở đây đâu!”


Đưa mũi hơi trút vào góc hít vài hơi, bà lặng lại chừng vài giây rồi đưa bàn tay sờ xem đó là gì. Nó lo lắng tột độ vì bà sắp phát hiện ra nếu sờ trúng người nó. Vội đưa tay rút trong bao ra chiếc làn đi chợ, mà nó vừa trộm được từ những nhà khác, đưa cho bà, bà nắm trúng cái quai của chiếc làn rồi nhấc lên cao, chậc lưỡi:


-“Trời! Già rồi lẩm cẩm. Đi chợ về rồi lại hậu đậu bỏ quên cái làn ở đây! Thiệt khổ!”.


Đặt lại chiếc làn xuống chỗ nó ngồi, bà đứng thẳng người lên rồi lấy tay quờ quạng rút ba cây nhang trong chiếc hộp, lấy tay trái cầm hộp quẹt đốt nhang. Ngọn lửa vừa phừng lên rồi vụt tắt kéo theo một làn khói mỏng thơm phức mùi trầm hương. Tay phải cầm nhang và tay trái lần ra vị trí giữa bàn thờ. Đứng cách ra tầm nửa bước, bà cầm nhang bằng hai tay đưa cao lên trán, hướng thẳng lên tấm ảnh trên bàn thờ. Bà đứng lâu lắm, xá ba xá rồi tiến tới cắm nhang vào chiếc lư nhỏ, bà lại mò mẫm nhưng không sờ trúng chiếc lư, nó sợ hãi vội móc chiếc lư đặt lại thật nhanh giữa bàn thờ. Tiếng chân lư chạm vào mặt bàn gỗ phát ra tiếng “kịch!”. Mồ hôi chảy đầm đìa trán và cả người, nó hoảng hồn định bỏ chạy một hơi ra cửa và tẩu thoát. Nhưng bà vội rầy:


-“Con Mi! Tối rồi ngủ đi! Chạy tới chạy lui làm đổ đồ của bà!”


Bà tưởng là con mèo mà bà nuôi trong nhà chạy trúng phải đồ đạc trong nhà. Rồi đưa tay rờ kiếm cái lư, tay trái rờ trúng lư, bà tự trách mình:


-“Mù lòa thiệt khổ! Nó ở đây mà nãy giờ kiếm muốn chết!”


Nghe bà nó tới đó, nó rướn người thở thật nhẹ mừng vì thoát nạn lần hai. Bà thành khẩn cắm nhang vào lư rồi với tay cầm gậy đang đặt sát vách nhà, lần ra chiếc ghế gỗ ngồi. Đưa tay rút cái khăn trong túi ra, bà lau trán rồi lau hai khóe mắt. Hình như bà muốn khóc. Bà không nói gì chỉ ngồi thút thít một mình trong bóng tối.


Ngồi trong góc, nó quan sát hết mọi hành động của bà. Không nghe bà nói gì, mà chỉ có mấy con muỗi vo ve với tiếng thút thít của bà.


-“Soạt! Soạt!…”


Nó đưa tay gãi cánh tay và bàn chân thật nhẹ vì muỗi cắn, bà vẫn thút thít và thậm chí tiếng thút thít càng to hơn cùng lúc với tiếng gãi của nó. Thấy bà khóc lớn tiếng, nó tranh thủ rón rén bước ra cánh cửa. Trước khi bỏ đi nó không quên trả lại hai chân đèn lại bàn thờ, vì nó biết căn nhà mà nó vào trộm tối nay là nhà của một bà già mù, đơn thân và nghèo, chẳng có gì quý giá.


Bớt xúc động, bà nói với ông:


-“Ông à! Thằng … Thằng con mình… nó còn sống ông à! Nó mới về đây nè! Chắc nó biết bữa nay giỗ ông. Tui không dám làm nột sợ nó bỏ chạy. Vẫn cái mùi mồ hôi thân quen ấy… vẫn cái ngón chân bị tật xòe rộng rinh… nãy nó mới đem về cho tui cái làn đi chợ, chắc nó biết tui không có nên… Từ hồi ông chết bỏ lại mẹ con tui, nó còn nhỏ xíu, giờ chắc nó đã lớn lắm rồi…”


Bà xúc động dữ dội. Hồi sau kềm lại được thì nói tiếp:


-“Năm nó mười ba tuổi, nó cãi với tui rồi bỏ đi biền biệt, bỏ tui một mình ở lại căn nhà vắng lạnh này. Khóc thương và tìm kiếm mọi ngóc ngách mà không thấy. Trông hoài chẳng thấy nó về. Không biết sống chết ra sao. Tui khóc hàng đêm vì nhớ ông và nó. Giờ mắt tui đui rồi, đâu thấy đường thấy sá gì mà đi kiếm nó nữa!…”


Lặng một chút rồi bà thủ thỉ:


-“Nãy giờ, tui ráng hết sức níu chân nó lại. Nhà mình đâu có làn đi chợ, cũng không nuôi con mèo nào. Tui ráng kiếm chuyện mà nói để giữ chân nó phút nào hay phút đó. Chắc nó hận tui lắm thành thử không nói với tui câu nào. Nhưng… bữa nay… nó chịu về là mừng lắm rồi ông! Nãy tui nghe mùi nhang, chắc nó đốt nhang cho ông phải không? Ông có linh thiêng phù hộ cho con nha ông! Nó hận tui cũng được, miễn nó thương ông là được rồi, ông à!



-“Hu…hu…hu…!”


Bà không xúc động nữa, nhưng có tiếng ai đó đang thút thít bên vách hè… Một người mẹ đơn thân nhớ con và một đứa ăn trộm mồ côi từ nhỏ…


                                                                                        Little Stream

03 tháng 7, 2021

Truyện ngắn: CẢI LƯƠNG

 NGHE AUDIO TRUYỆN TẠI ĐÂY

1.

Xen bon bon lăn bánh trên con đường nhựa phẳng lì. Nhiệt độ nóng bức của Sài Gòn đã tới đỉnh điểm. Hai bên đường không có chút bóng mát. Những căn nhà cao tầng cứ thay nhau mọc lên tua tủa. Chợt xa xa vẳng lên tiếng đờn cổ nghe tích tịch tình tang thật tha thiết.


-“Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra… chào….”


Kèm theo đó là môt tiếng vỗ tay tán thưởng. Nam cố tình chạy xe thật chậm để nghe cho rõ từng điệu đờn và từng điệu hát.


-“Trời ơi! Cải lương kìa! Lâu lắm rồi…!”


Câu cải lương như dòng nước mát tắm cho tâm hồn Nam giữa cái nóng nảy và khó chịu trưa hè.



2.

-“Nam! Đi coi cải lương với ngoại không?”


Chú bé tầm bảy tuổi háo hức khi nghe ngoại rủ đi coi cải lương. Biết phải làm gì, chú bé chạy ra hàng ba lượm hai viên gạch ống, sẵn đưa tay cầm theo cây quạt giấy chạy theo ngoại. Điểm đến là nhà chú Năm cuối xóm. Con chú Năm làm việc ở Sài Gòn, nên có tiền mua cho chú cái vô tuyến trắng đen. Biết bà con trong xóm ai cũng mê cải lương, nên tới giờ nhà đài phát cải lương, chú Năm dời vô tuyến ra trước hàng ba cho mọi người cùng coi miễn phí.


-“Rồi! Đợi thằng con tui đem cái bình về nghen bà con. Hôm qua gởi đi sạc, bữa nay lấy hơi trễ, bà con thông cảm.”


Lót hai viên gạch bà cháu ngồi bệt xuống sân, tay phe phẩy quạt cho đỡ nóng, hóng cải lương. Bà con nói chuyện ỏm tỏi cả sân nhà chú Năm. Tầm mười phút sau, con trai chú Năm về tới, tay cầm chiếc bình sạc. Kẹp hai chốt vô bình sạc. Vài tia sọc chạy lên xuống liên tục trên màn hình, thi thoảng lại chuyển qua toàn hột mè và hột é. Chú Năm lấy tay chỉnh hai cây ăng-ten qua lại thì vô tuyến phát hình. Đập ngay vô mắt cảnh bà Trưng Trắc tế sống Thi Sách trong tuồng “Tiếng Trống Mê Linh”.


Nhân vật Trưng Trắc vô câu vọng cổ ngọt như mía lùi:


–“Nhưng hỡi ơi, chí tang bồng nay chưa kịp thỏa mà đường âm dương cách trở – lành lạnh áng mây …”


Bà con đã kéo theo chữ cuối “…sầu” rớt trúng nhịp cô nghệ sĩ trong vô tuyến đang ca. Cả sân vỗ tay rần rần hoan hô vì cô Trưng Trắc hát quá mùi mẫn.


Tới đoạn Thi Sách báo mộng về đáp lời vợ, ngoại tôi kéo ông quần lên chùi khóe mắt, miệng vừa lẻm bẻm nhai trầu, vừa nói:


-“Trời ơi! Đi làm chi cho chết! Tức quá!”


Nhìn một vòng xung quanh, nhiều người cũng ngậm ngùi không thua gì ngoại.


3.

-“Oái! Mày tắt giùm tao mấy cái thứ ẻo lả ấy ngay đi.”


Đứa bạn cùng phòng trọ vừa ngáp ngắn ngáp dài, vừa kêu Nam tắt chương trình phát thanh cải lương buổi trưa, cậu bạn nói tiếp:


-“Đi học mệt cả buổi sáng, về mày còn hành tao, sao chịu nổi!”


Nam ậm ừ bực bội trước lời nói của bạn, trả lời lại:


-“Nhưng cải lương hay mà! Dưới quê hay nghe… để… ngủ đó còn gì!”


Cậu bạn đứng lên tiến nhanh tới cái điện thoại đang mở cải lương, có lẽ định giật hoặc tắt hoặc tệ hơn là đập bể cái cái thứ ẻo lả cho đỡ phiền phức. Nam nhanh tay hơn chạy tới ôm điện thoại kè kè bên mình. Từ hôm đó, mỗi lần cậu nghe cải lương, thì cắm dây nghe vào rồi thưởng thức một mình, cậu bạn chẳng nói gì nữa. Riêng Nam vẫn hạnh phúc khi được nghe lại những gì… rất quê hương!


Xa quê đi học, Nam vẫn luôn có những thao thức tìm lại chính nguồn cội, nơi mà cậu được sinh ra. Đối với cậu, cải lương là một trong những nét nguồn cội ấy. Nhiều hôm, đi đâu giữa phố nghe tiếng cải lương, Nam vuốt theo câu hát, y như ngày còn nhỏ đi coi cải lương với ngoại, khiến cậu vui nức lòng. Nhất là khi vuốt đúng tông đờn và chữ cuối, cậu vừa lái xe vừa cười khoái chí. Tự khen mình:


-“Cũng bảnh chớ bộ!”


4.

-“Alo! Ngoại ơi ngoại khỏe không?”


Bên đầu dây bà trả lời với giọng run run:


-“Ờ! vẫn khỏe lắm! Chỉ già rồi tay chân hơi yếu.”


Nam hỏi:


-“Ngoại chịu khó lấy dầu nóng bóp tay chân nha! Cấp này trời lạnh xương cốt dễ tê cứng và đau nhức lắm!”


-“Ờ! Ngoại biết rồi! Mà… mà con khỏe không?”



Chất giọng miền Tây Nam Bộ đặc sệt của ngoại vẫn luôn gợi nhắc Nam nhớ về quê nhà và những gì thuộc về nó.


-“Ngoại ơi! Ngoại… có còn coi cải lương không?”


-“Trời! Sao bỏ được con? Ghiền lắm! Tối nào cũng coi!”


-“Ngoại ca một khúc cho con nghe đi!”


Bên đầu giây bên kia, nghe tiếng ngoại tằng hắng cho trong giọng, rồi ngoại run run giọng:


-“Công mẹ sanh con ví bằng năm biển… lớn! Chỉ có càn khôn kia không bờ không bến mới sánh được với lòng mẹ thương con vốn không tận không… cùng…”


Ngoại mới ca tới chữ cuối, thì Nam… rớt nước mắt lã chã! Nhưng cố nén để ngoại không nhận ra qua điện thoại.


–“Nghe được không đa?”


-“Hay lắm đa! Ngoại ơi!”


5.

-“Sao mày mê cải lương dữ vậy? Nghe chán òm! Có gì hay mà nghe”


Câu hỏi của người bạn cùng phòng khiến Nam thầm cám ơn trời đã cho mình được sinh ra trong một không khí quê hương tuyệt vời. Nơi có những con người dễ thương, dòng sông thơ mộng, hàng dừa nghiêng soi dưới bóng nước và cả những tình cảm thiêng liêng mà chẳng thể nào diễn tả bằng lời được. Cậu mê cải lương vì đó là cái hồn dân tộc trong con người mình. Nghe cải lương là nghe chính bộc bạch của tâm hồn, của quê hương, mà… điều đó có gì đáng xấu hổ.


Đúng là những điệu nhạc chán òm, nhiều người diễn tả như những tiếng tụng kinh lê thê vô tận. Nhiều khi người ta nghe để… dễ ngủ. Nhưng Nam không nghe với những tâm trạng vô tình như thế. Điệu vui điệu buồn đan xen trong chính những lời ca và điệu bộ. Tiếng nỉ non của người vợ chờ chồng, tiếng đứa con cất lên khi thấy đời mình không còn cha mẹ, tiếng con sáo than vãn thay cho người phụ nữ khóc thương đời mình, lời ca ngợi quê hương đất nước và cả những điệu lý, điệu hò quen thuộc mà đứa trẻ nào cũng được nghe hồi nẫm.


Nghe bằng những nỗi lòng trải dọc theo lời ca tiếng hát, thì cải lương không nhàm chán và khó hiểu. Vì nó gắn liền với hồn thiêng của cả vùng miền và đặc trưng riêng của nơi ấy. Vì thế, có những người không thích cải lương cũng là chuyện không đáng trách, nhưng cần được cảm thông và giải thích nhiều hơn. Bởi lẽ cải lương ẩn chứa bên trong chúng những triết lý và cảm thức nội tâm sâu sắc, nhưng lại được khái quát hóa qua những gì rất dung dị và gần gũi.


-“Ừ! Tại nó ăn vô máu tao rồi! Mày biết không? Mày có biết cái cảm giác thiêng liêng của thứ gì đó trong dòng máu, thớ thịt không?”


Nam trả lời đứa bạn cùng phòng trong xúc động, vì cậu bạn vừa nhắc lại nỗi nhớ nhà của Nam.


–“Ờ! Ờ thì…”


Đứa bạn ậm ờ trước lời giải thích của Nam.


6.

Giáo sư giảng dạy môn Văn Hóa Việt Nam tổ chức cho cả lớp tận mắt đến sân khấu cải lương.


-“Trời ơi! Cái thứ quỷ ấy mà nghe cái gì trời!”


Có người còn nói trước:


-“Tao đem theo tấm che mắt, vừa nghe vừa ngủ cho sướng”.


Nam nghe nhiều lắm những lời bình luận, cậu vẫn im lặng và mong chờ tới ngày được tận mắt xem nghệ sĩ diễn thật trên sân khấu, để biết sự khác nhau giữa ngồi ngoài sân với ngoại coi cải lương với những gian ghế lịch sự ra sao.


Đêm hôm ấy, có nhiều tác phẩm hay được trình diễn khá công phu, nhưng Nam thích nhất bài Tân cổ “Buồng Cau Quê Ngoại”.


-“Quê Ngoại tôi ở mãi trong đồng sâu. Quê Ngoại có rất nhiều cau có rất nhiều trầu. Quê Ngoại tôi cũng nhiều mũi mắt, cũng nhiều đĩa vắt”


Hay có câu khác:


“Buồn nào hơn buồn đi xa xứ. Nhớ nào bằng nhớ tổ nhớ tiên. Tôi ra đi khi quê ngoại vẫn còn vui. Thuở hàng cam còn sai trái. Có bờ chuối xanh cao bên mấy nọc trầu vàng. Có bóng ngoại tôi đầu bạc như bông đang lụm khụm trồng hành. Miệng rầy chó, mắng mèo, chửi vịt. Rồi lại vào nhà lấy thóc cho ăn. Chửi mà thương chứ không phải ghét đâu. Tính hịt hạt nhưng thương con cưng cháu. Bóng hình kia in sâu vào tâm não. Cho đến trọn đời tôi không thể mờ phai.”


Giữa sân khấu rộng lớn và đèn điện chói lòa, nghệ sĩ mặc trang phục diễn sặc sỡ, người xem đông đúc. Nhắm nghiền mắt lại… chợt… Nam thấy khoảnh sân nhỏ xíu của chú Năm, thấy bà cháu ngồi trên hai viên gạch, thấy ngoại phe phẩy quạt cho mình, thấy ngoại kéo ống quần chùi nước mắt, cảm làn gió chiều thổi mơn man da thịt, nhớ… nhớ lắm…


                                                                                    Little Stream