31 tháng 3, 2021

Thơ: VƯỜN DẦU

 (Thứ Năm Tuần Thánh)


Con xin bước xuống vườn Dầu,

Ước mong san sẻ nỗi sầu Giê-su.

Cảnh trời yên ắng như ru,

Có làm vơi lắng mây mù tâm can?


***



Màn sương phủ lấy không gian,

Ngỡ đang ướp lạnh muôn vàn tái tê.

Trông xa mà ngẫm lối về,

Cớ sao dai dẳng lê thê quá chừng.


***


Mộng về mơ ước quay lưng,

Chợt lòng khấp khởi, vui mừng xiết bao.

Nhưng tình thương Chúa thế nào?

Mà con ngoảnh mặt, chối sao cho đành.


***


Xin vâng đây kiếp lá xanh,

Chỉ mong kết hiệp với cành mãi thôi.

Bể đời có bạc như vôi,

Nhưng con hạnh phúc lên đồi với Cha.


                                                                                Little Stream

30 tháng 3, 2021

Truyện ngắn: GIA TÀI NGƯỜI MỤC TỬ

 (Truyện ngắn – tưởng nhớ những vị mục tử hết mình vì đoàn chiên)


1.

-“Dì ghi lại những gì tui đọc nhé!”


Cha Thiên nằm trên chiếc giường gỗ, tay chân bất động, hai giọt nước mắt gần như sắp ứa ra, nhưng cha lại cố nén lại nên làm cho đôi mắt đỏ ngầu như những tia máu. Vị nữ tu trẻ run run cầm cây viết và xấp giấy A4, được đặt trên một chiếc bàn gỗ nhỏ cạnh giường mà cha đang nằm. Sơ ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ, thấp hơn chiếc bàn, ghé đôi tai gần bên cha Thiên, để nghe cha nói thật rõ và ghi lại.


-“Cha ơi! Con đã chuẩn bị rồi, cha đọc đi nhé!”


Sự hồi hộp và căng thẳng hiện rõ trên nét mặt người nữ tu, cha Thiên như muốn chắc chắn, nên cố lấy vài hơi liên tục rồi nói:


-“Dì đã gạch hàng sẵn chưa? Để viết cho ngay ngắn, thẳng thớm. Tui sợ …”


Cha ngưng nói, vì nước mắt sắp trào. Vị nữ tu trẻ biết ý, liền trả lời:


-“Dạ rồi cha ơi! Con chuẩn bị tươm tất rồi!”




2.

Cha Thiên năm nay đã gần tám mươi lăm tuổi. Cái tuổi mà những người bạn linh mục cùng thời đã ra đi trước để về với Chúa. Người gần nhất là cha Lộc mới qua đời cách đây vài tháng. Sau những cơn bệnh liên tục mới đây, khiến sức khỏe cha suy sụp thấy rõ, Đức Giám Mục giáo phận cho thuyên chuyển cha về nhà hưu dưỡng để được chăm sóc chu đáo hơn, vì ở môi trường họ đạo ít ai quan tâm tới sức khỏe của cha đúng cách. Thấm thoắt, vậy mà cha về nhà hưu dưỡng linh mục giáo phận đã gần mười năm.


Cha chịu chức linh mục từ lúc khá trẻ, mới ba mươi tuổi đã chập chững làm cha phó và tập sự với các cha sở trong việc trông coi họ đạo. Là một linh mục có năng lực, cha được cử đi học ở nước ngoài sau hơn chục năm mục vụ họ đạo, việc học nuốt thêm hơn chục năm của cha, sau đó trở về Việt Nam với tấm bằng trong tay khi tuổi gần năm mươi. Công việc của cha khi về lại Việt Nam là làm giáo sư giảng dạy tại Đại Chủng Viện, đồng thời trông coi một họ đạo nhỏ gần Đại Chủng Viện.


Công việc của một giáo sư không hề nhẹ nhàng, cộng thêm những lo lắng cho đoàn chiên, dù chỉ là một họ đạo nhỏ với vài trăm dân, nhưng cũng khiến cha gặp nhiều thử thách. Có những ngày dạy học một buổi, mục vụ họ đạo một buổi, tối ngồi xem lại bài đã soạn, thậm chí nửa đêm cha còn đi xức dầu bệnh nhân cho con chiên trong họ đạo nữa. Đó là chưa kể tới những dịp lễ đặc biệt như Giáng Sinh, Phục Sinh, mùa Vọng, mùa Chay và những dịp lễ đặc biệt khác, vì đã làm một cha xứ thì không thể bỏ bê việc tổ chức chương trình thiêng liêng vào những dịp lễ như thế.


Dù áp lực công việc không hề ít, nhưng đặc biệt mà ai cũng phải thừa nhận là cha không bao giờ cáu gắt hay khó chịu. Chỉ vài năm đảm nhận công việc họ đạo và dạy học, người của cha gầy còm, đen đủi vì phải chạy việc nhiều, nhất là trong khâu thăm viếng con chiên trong họ đạo. Chỉ vài trăm hộ gia đình, nhưng để thăm cho hết và hiểu hoàn cảnh từng gia đình một là cả một công trình vĩ đại, vậy mà cha làm được.


Chúa thương lòng nhiệt thành của cha, nên ban cho cuộc đời mục tử của cha ít bệnh tật. Suốt ngần ấy năm quần quật bước ra cánh đồng sứ mạng, chưa lần nào cha nhập viên, hay bị một chứng bệnh gì to tát, mà chỉ cảm sốt và vài liều thuốc có thể giúp cha lấy lại tinh thần phấn chấn ngay lập tức. Nhiều giáo dân và nhiều thầy trong Đại Chủng Viện nhìn cha mà phải nể phục vì sức mạnh phi thường như thế.


3.

-“Ông cố tới thăm nhà con! Con cám ơn ông cố!”


Một giáo dân vui mừng cám ơn cha sau chuyến ghé thăm nhà, cha dúi vào tay người phụ nữ vài chục ngàn và nhắn:


-“Con mua ít gạo cho mẹ và con của con ăn. Sáng giờ bà cháu chắc đói meo rồi!”


Người phụ nữ trung niên cầm số tiền, nhìn theo chiếc xe dream của cha Thiên đang chạy xa dần, tay níu chặt số tiền và tay kia dụi nước mắt.


Dường như Chúa ban cho cha khả năng nhạy bén lạ thường trước những hoàn cảnh khó khăn của giáo dân. Chỉ cần cầm xe và chạy ngang gia đình nào đó, cha sẽ cảm nhận được gia đình nào đang có chuyện cần giúp, và đa phần trực giác của cha là đúng. Có lần cha tâm sự rằng:


-“Hồi nhỏ, ba mẹ cha cũng cãi nhau suốt ngày, thậm chí có hôm còn đánh nhau túi bụi. Cha lúc đó chỉ là đứa bé nên chưa biết phải làm gì, đành núp vô góc nhìn ba mẹ cãi và đánh nhau. Rồi có hôm ba của cha giận cá chém thớt, lôi cả cậu con trai ra mà đánh cho đỡ tức. Từ đó, trong cha có một nỗi sợ vô hình về những cuộc cãi vã trong gia đình. Nên mỗi lần thấy ba đi nhậu về, chớm chớm qua vài câu nói sốc là cậu bé Thiên cầm tay mẹ chạy đi ra ngoài sau ruộng, để tránh cơn giận của ba. Nhờ đó, mà mẹ con tránh được bao nhiêu rắc rối”.


Khi hỏi cha dấu hiệu nào để biết gia đình người ta có chuyện chẳng lành, cha nói:


-“Muốn biết nhà nào ăn ở có ngăn nắp, trật tự hay không, thì xuống nhà bếp và nhà vệ sinh mà xem là biết. Còn muốn biết nhà nào xảy ra chuyện chẳng lành, thì dòm vô trước cửa nhà, sẽ thấy cảm giác lạnh lẽo đến lạ thường xuất hiện ngay trước cửa nhà của họ. Cha không tin chuyện khí âm, khí dương gì đâu, nhưng tự khắc cảm giác ấy lại đến như hồi nhỏ cha đoán mỗi lần ba lên cơn muốn đánh mẹ vậy!”


Càng nghe cha nói, càng bái phục vì sự nhạy bén lạ thường ấy. Nhờ đó mà mỗi lần cha xách xe lên đường, thì luôn cầm theo bánh, gạo, hoặc tiền, hoặc bất cứ gì nhà xứ có, để biếu cho những gia đình như thế. Có hôm từ Đại Chủng Viện dạy học về, được các thầy biếu vài cái bánh, cha cũng ghé ngang nhà ai đó để cho họ chứ không mang về nhà xứ. Đồng thời, chính sự nhạy bén ấy đã giúp bao nhiêu gia đình khỏi bạo hành, cụ thể là mỗi lần có ông chồng nào muốn lên cơn đánh vợ và con, thì cha đã ghé vào nhà trước đó, người đàn ông thấy cha thì e dè rồi lẩn vào buồng mà ngủ, chứ chẳng dám lên cơn nữa.


4.

Lo cho người khác thì vậy, còn bữa ăn của cha thì chỉ có mỗi con cá chiên hoặc miếng thịt kho trong cái niêu nho nhỏ, cha ăn mấy hôm liền. Có khi về thấy cơm còn ít, mà nhớ lại đàn gà và mấy con cá chưa có gì ăn, cha đành nấu gói mì và ăn cho no bụng, rồi đổ cơm ra sân cho gà, xuống ao cho cá, miệng vẫn không quên nói tiếu lâm:


-“Người không ăn thì cá ăn thay nhé! Lần sau sẽ nấu nhiều hơn cho chúng mày! Ăn cho mập nha!”


Mấy con cá vẫy đuôi mừng rỡ ăn phần cơm, những chú cá mập trắng, chúng đâu biết chủ của chúng vừa ăn xong một bữa mì gói vì nhường bữa cho chúng. Để khi chúng đủ lớn, sẽ là món quà cha dành tặng cho các gia đình nghèo trong dịp lễ đặc biệt như tết chẳng hạn.


Cha không có người nấu ăn riêng, mọi chuyện trong nhà đều do cha tự làm. Giáo dân trong họ đạo đòi thuê một người nấu ăn, cha nói:


-“Tui đi suốt ngày. Sáng dạy học quá trưa nên ăn cơm với mấy thầy rồi mới về! Chiều đi thăm giáo dân và dâng Thánh Lễ. Tối soạn bài rồi tấn mùng đi ngủ sớm. Thuê bà bếp nấu cho bà bếp ăn hay sao?” Nói rồi cha cười khoái chí. Bà con đành lắc đầu chịu thua trước lí luận của cha.


Cha giám đốc Đại Chủng Viện thấy cha ở một mình, muốn gửi các thầy tới giúp năm và giúp tháng hè, cha luôn hoan nghênh chào đón, và hướng dẫn tận tình cho các thầy mới tập sự. Từ ngày có các thầy, cha ăn cơm ở nhà nhiều hơn, bữa ăn được các thầy chăm lo đầy đủ hơn, nhờ đó mà cha lên cân đôi chút. Nhưng cứ mỗi lần gặp cha giám đốc, cha lại nhắn:


-“Cha ơi! Nếu thực lòng muốn các thầy tới họ đạo, chỗ tui, tập sự thì tui hoan nghênh lắm! Nhưng nếu vì cha thấy tội nghiệp tui vì ở một mình, thấy việc ở với tui mà ảnh hưởng tới việc học của các thầy, thì cha làm ơn rút các thầy giùm tui nhé! Việc học của các thầy quan trọng hơn, vì có học tốt, học vững thì mới làm linh mục tương lai tốt được, đừng ép mấy thầy làm việc quá sớm mà lêu lỏng việc học.”


5.

Ngót nghét đã hơn hai mươi năm coi xứ, và làm giáo sư thâm niên của Đại Chủng Viện. Khi linh tính báo cho cha biết sức khỏe của mình không còn tốt được bao lâu nữa, cha đã gửi đơn lên Đức Giám Mục xin về hưu. Lời thỉnh cầu ấy đã được chấp nhận, nhà hưu trở thành ngôi nhà mới của cha, nơi mà cha được quan tâm chăm sóc kỹ hơn về sức khỏe, và cũng có thời gian để cha nghỉ ngơi sau những năm dài học tập và làm việc liên tục.


Từ ngày về nhà hưu, nhiều cha trẻ, mà trước đây là học trò của cha tại Đại Chủng Viện đều tới thăm hỏi sức khỏe thầy mình khi có dịp đi ngang nhà hưu. Những giáo dân ở họ đạo mà cha từng giúp, cách riêng là các gia đình nhờ cha mà vượt qua khó khăn, bất hòa nay cũng hay lui tới thăm hỏi. Cuộc sống của cha khi về hưu vẫn vui vẻ và bình an.


Cha vẫn thường cầu nguyện với Chúa rằng:


-“Lạy Chúa! Những thành quả mà con được nhận lãnh không phải do con làm được, mà là do Chúa đã ban cho con. Xin cho con từ hôm nay đến hồi xuôi tay nhắm mắt, chớ khi nào tự hào, kiêu hãnh mà giành công của Chúa!”.


Về với cuộc sống mới, cha vẫn yêu lao động, yêu việc vườn tược. Cha hay nhờ các nữ tu, các thầy hoặc các nhân viên phục vụ tại nhà hưu có ghé chợ thì mua giúp cha những hạt giống hoa này hoa kia, giống rau này rau kia để cha trồng. Nhờ cha mà khung viên nhà hưu, trước đây chỉ bạc màu nắng, giờ đây có những mảng xanh, giúp tâm hồn các cha nghỉ hưu, cũng như những ai đến nơi đây cũng thấy trẻ lại.


Cha Thiên vẫn yêu viết lách. Những suy tư của cha giờ đây không về những mảng trừu tượng, khó hiểu như hồi làm giáo sư, mà chủ yếu là về tâm lý tuổi già, cái chết và nỗi đau thân xác. Vừa là những cảm nghiệm, cũng là những suy tư quý báu qua kinh nghiệm thực tế của bản thân cha.


6.

-“Dì ghi giùm tui nhé!


Tôi là linh mục Gioan Maria Vianney Nguyễn Thành Thiên,


Tôi xin tạ ơn Thiên Chúa đã yêu thương và bảo vệ tôi bình an suốt 85 năm làm người của mình.


Tôi xin cám ơn Đức Giám Mục và các vị cố Giám Mục đã yêu thương và quan tâm tôi cách đặc biệt, tin tưởng và trao cho tôi có cơ hội được học tập và gửi tôi đi làm việc trong cánh đồng của Chúa.


Tôi xin cám ơn những người bạn linh mục của tôi, những con người đã kề vai sát cánh bên tôi trong những tháng ngày sống đời tu, và nâng đỡ tôi trong những ngày tôi gặp khó khăn trong cuộc sống.


Tôi xin cám ơn các cha, các thầy là học trò của tôi, đã nhớ và đến viếng thăm tôi suốt khoảng thời gian tôi về nhà hưu dưỡng.


Tôi xin cám ơn những con chiên đáng quý của tôi, những người giáo dân nghèo, đơn sơ, dễ mến, gần gũi, hiền hòa, thân thiện, mọi người là kho báu mà Thiên Chúa trao cho tôi, và khi ra đi, tôi xin khắc tên mọi người trong trái tim tôi.


Tôi xin cám ơn quý Dì, quý thầy và quý nhân viên đã tận tình lo lắng, chăm sóc cho tôi suốt khoảng thời gian tôi về nghỉ hưu tại nhà hưu này.


Tôi xin lỗi tất cả mọi người vì những thiết sót, lỗi phạm mà tôi đã khiến mọi người phiền lòng. Nhân vì lòng thương xót, xin mọi người tha thứ cho tôi.


Tôi xin… Tôi xin…”


Cha Thiên ngập ngừng đôi chút như cố ngắt ngang dòng cảm xúc đang chảy tràn trong cha. Cha bặm đôi môi, vẫn gồng khiến đôi mắt đỏ ngầu lên, và không để nước mắt chảy ra. Người nữ tu lặng đôi chút, hồi sau thấy cha bình tĩnh hơn, liền hỏi nhẹ nhàng:


-“Cha ơi! Cha muốn ghi gì nữa không?”


-“À! Còn! Dì ghi dòng cuối giùm tôi:


Tôi ra đi với đôi bàn tay trắng, nhưng thực ra tôi giàu có vô ngần, tất cả mọi người là tài sản mà tôi đã có, đang có và mãi có. Tôi sẽ dâng món quà ấy lên trước Thiên Chúa và xin Người ban ơn cho anh chị em hết thảy.”


Nhịp thở của cha yếu dần, chậm dần, tiếng máy đo nhịp tim réo liên tục, chừng vài phút sau, cha tắt thở nhẹ nhàng.


7.

Tiếng chuông nhà nguyện đã vang lên, báo hiệu sự ra đi của cha Thiên. Tin cha qua đời được loan đi toàn giáo phận.


Thánh Lễ an táng hôm ấy, bức di ngôn của cha Thiên được vị nữ tu trẻ, người đã trực tiếp ghi lại những dòng ấy, đọc lên cho cộng đoàn trong nước mắt. Trong đoàn người dự lễ an táng hôm ấy, người ta hiểu ra rằng họ là món quà, là tài sản mà Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại này, là món quà mà khi sống người ta ghi khắc, và khi chết họ sẽ mang theo mãi mãi!


 

                                                                                    Little Stream

24 tháng 3, 2021

Thơ: BƯỚC ĐI EM...

 Bước đi em! Nhấc đôi chân yếu ớt,

Nhích nhẹ thôi, rồi bước tiếp chân kia,

Nếu đời em hoài mặc cảm đầm đìa,

Thì làm sao em đi về muôn hướng?



Bước đi em! Vì đời em hướng thượng,

Chứ phải đâu hèn lụy mãi thế trần,

Cớ sự gì em cứ phải phân vân?

Hãy bước đi, chẳng còn gì sợ hãi.



 

Bước đi em! Đành rằng đời tê tái,

Vướng trăm điều, bận ngàn nỗi đau thương,

Chẳng làm sao mà tránh hết đoạn trường,

Nhưng ơn thánh giúp em lần qua hết.


 

Bước đi em! Vì cuộc đời đang dệt,

Sẽ thành thơ, thành thi vị cuộc đời,

Bước rạng ngời, em trao tỏa muôn nơi,

Đời như thế, gì đẹp bằng em nhỉ!



Bước đi em, nhớ nguyện cầu liên lỉ,

Hãy can trường, chiến đấu với chông gai,

Đứng thẳng lên! Đôi mắt hướng đường dài,

Vai hành lý, em bước ngay kẻo trễ.



                                                                                Little Stream

                                                                             (Gửi tặng bạn Loan)


https://dongten.net/2021/03/19/co-tich-giua-doi-thuong-mot-tinh-yeu-va-gia-dinh-dep/

22 tháng 3, 2021

Truyện ngắn: QUÊ NGOẠI

 Cứ mỗi lần về quê, Khải vui lắm vì được đắm mình vào bầu không khí mát lạnh, được hít thở hương cây cỏ của quê hương, được nhìn lại những khung cảnh gần gũi mà cả tuổi thơ cậu đã gắn bó, nhất là được gặp ngoại, người bà đã chăm sóc cậu suốt quãng đời tuổi thơ.


-“Khải về rồi hả con? Khỏe không con?”


Dáng một cụ bà đã ngoài bảy mươi, da vẻ nhăn nheo với nhiều nốt đồi mồi, nhưng khuôn mặt vẫn luôn đầy vẻ phúc hậu và nụ cười thật tươi. Đó là ngoại của Khải. Hình ảnh ấy dù có đi xa bao lâu đi nữa cậu cũng không bao giờ quên được.


Ngoại ngày hôm nay khác hơn mười năm về trước nhiều lắm. Ngày xưa ngoại còn khỏe nên đi đứng rất nhanh nhẹn, làn da trắng và khuôn mặt hồng hào chứ không nhiều nếp nhăn và nốt đồi mồi như bây giờ. Đôi bàn tay của ngoại lúc ấy tuy thanh mảnh nhưng cứng cáp, có thể xách vác nhiều vật dụng dù đã ngoài sáu mươi, và nhất là mái tóc của bà lúc đó chỉ mới điểm hoa râm chút ít. Bây giờ, ngoại đã yếu hơn trước rất nhiều, thêm đôi mắt đã mờ và không nhìn rõ những vật xung quanh nữa, đôi tai không còn nghe rõ, và đôi bàn tay, bàn chân gầy guộc rõ hẳn. Nhưng có một điều mà Khải thấy ngoại không thay đổi, là chính tình thương mà bà dành cho cậu.




-“Lại ngoại ôm cái coi! Bự dữ vậy nè! Thành đàn ông con trai rồi chứ đâu còn con nít như ngày xưa nữa!”


Ngoại vẫn nhớ từng kỷ niệm tuổi thơ của Khải khi sống cùng với bà. Hồi đó, vì ngoại ở một mình, ba mẹ Khải cất căn nhà riêng gần đó, nên ba mẹ cắt cử Khải lên ở với ngoại. Trước là chăm sóc sức khỏe cho bà, có gì cần thiết thì chạy xuống kêu ba mẹ. Sau là hủ hỉ có bà có cháu cho vui, chứ tuổi già ngoại ở một mình buồn lắm. Vậy là cậu nhóc Khải vui vẻ lên ở với ngoại gần mười mấy năm trời, cho đến khi cậu rời quê lên Sài Gòn học.


-“Đợi ngoại xuống nấu cơm cho con ăn nghen! Rửa mặt, rửa tay cho mát đi con!”


Nói vậy chứ ngoại không còn tự nấu cơm được nữa, vì thế mà ba mẹ Khải đã dời lên ở chung với bà kể từ ngày cậu đi lên thành phố học. Ba mẹ nấu cơm cho ngoại ăn, và chăm sóc bà thay cho vị trí của cậu. Nhưng ngoại thương cháu lắm nên lúc nào cũng so sánh: “Tụi mày chăm cho tao không bằng thằng cháu tao! Cháu tao thương tao nhất!”. Ba mẹ chỉ cười và đôi lần Khải gọi điện thoại về, ba mẹ cứ nhắc hoài câu nói ấy của ngoại, rồi còn thòng thêm câu chọc con trai: “Lo về mà ở với ngoại kìa! Ngoại cứ chê ba mẹ bai bải”.


Bà đi từng bước xuống bếp, hối ba mẹ dọn cơm cho cháu ăn, mẹ Khải chọc bà bảo:


– “Trời! Nó con của con, cháu của má; chứ có phải quan thần gì đâu mà dọn cho nó! Biểu nó xuống tự dọn mà ăn”.


Vậy là ngoại nói lẫy:


-“Mấy đứa này, con cái lâu lâu mới về, không thương nó mà còn bắt nó mần!”


Rồi ngoại lui cui đi dọn chén, dọn đũa. Khải định chạy tới tiếp, nhưng ngoại kêu đứng im đấy để bà làm. Nhìn dáng ngoại đứng trong góc bếp, chợt cậu nhớ lại ngày xưa bà cháu ngồi dưới chái bếp thổi lửa, nấu cơm, kho cá. Bữa cơm xưa ấy của hai bà cháu đơn giản mà ngon lắm. Để hôm nay, dù gần chục năm rồi, cậu vẫn không quên được hương vị cá mà ngoại kho năm xưa. Có lẽ cũng nhờ ngoại chỉ dẫn mà Khải biết làm nhiều, từ chuyện bếp núc cho tới những chuyện vườn tược, bao nhiêu kinh nghiệm bà truyền lại cho cháu hết thảy. Nhờ vậy mà hôm nay rời quê, Khải vận dụng mớ kiến thức phổ thông ấy để tự chăm sóc bản thân khi xa nhà.


Chiều chiều thấy ngoại ngồi ngoài sân sàng gạo. Dù thời buổi hiện đại, đã có gạo sạch, nhưng bà thích việc sàng gạo này vì quen làm từ hồi nhỏ xíu. Biết ý bà nên ba mẹ Khải cứ phải mua ít gạo tẻ loại còn thóc để mỗi ngày bà sàng và lựa gạo để ba mẹ nấu ăn. Từ đàng sau nhìn tới, dáng bà ngồi sàng gạo ngoài sân vẫn như ngày xưa, vẫn nét dân dã, miệng nhai trầu bỏm bẻm và dùng tay nhặt gạo lép bỏ ra, miệng không quên nói: “gạo mẩy ăn ngon hơn!”.


-“Ngủ đi con, ngoại quạt cho con ngủ”. Ngồi trên giường, bà cầm quạt phe phẩy quạt mát cho cháu, nhưng cậu quen ngủ một mình từ dạo xa quê, sống tự lập, nên Khải nói với ngoại:


-“Nhà có quạt máy rồi mà ngoại! Ngoại ngủ đi nhé! Đừng lo cho con. Ngoại ngủ sớm, lấy sức ngày mai dẫn con qua thăm hàng xóm nha ngoại”.


Bà đồng ý và về phòng ngủ. Khải gác tay lên trán nhớ lại kỷ niệm đẹp về người bà thân yêu suốt những năm tuổi thơ. Năm nay gần ba mươi tuổi, vậy là xa nhà đã hơn mười năm. Cậu nhớ như in lần đầu xa nhà, người cậu gọi về đầu tiên không phải là ba mẹ, mà là bà ngoại. Ngoại vừa dứt tiếng: “Khải hả con, khỏe không con?” thì cậu đã rơi nước mắt. Hôm nay, giọt nước mắt ấy vẫn luôn ý nghĩa với cậu, vì cậu hiểu rằng bà ngoại là món quà quý giá mà thượng đế ban cho mình.


Thấm thoắt một tuần thăm nhà đã hết, Khải phải trở về Sài Gòn tiếp tục công việc.


-“Ngoại ơi! Mai con trở lên thành phố rồi! Ngoại ráng giữ gìn sức khỏe nha! Mỗi lần về thấy ngoại khỏe con mừng lắm!”


Khuôn mặt bà trông buồn hẳn, hai mắt nhíu lại như cố nhìn cháu cho rõ, lấy bàn tay gầy vuốt lên tóc cháu, rồi bà nói:


-“Tuổi già mà con! Như trái mít chín, muốn rụng chừng nào thì rụng.”


Cậu níu tay bà như níu kéo:


-“Thôi mà ngoại! Sao lại rụng? Ngoại đợi tới ngày con thành công trong cuộc sống, về mua cho ngoại áo đẹp để mặc, mua xe chở ngoại đi thăm xóm giềng, rồi mua đồ ăn ngon nữa.”


Bà lắc đầu, khoát tay, đáp lời Khải:


-“Ngoại đâu ham gì mấy thứ đó! Chỉ muốn con thành công, hạnh phúc là ngoại vui lắm rồi. Con ráng lên nha! Làm người tốt, làm con ngoan của ba mẹ, làm cháu ngoan của ngoại.”


Cuộc nói chuyện của hai bà cháu đêm hôm đó kéo dài mãi gần sáng. Bà cứ vuốt tóc, xoa lưng thằng cháu mấy khi mới về thăm bà một lần.


……


Xe đã khởi hành, Khải cứ nhìn mãi con đường quen thuộc nay đã hằn sâu trong tim cậu. Khải thấy nuối tiếc không vì con đường ấy cho cậu làn gió mát, cảnh đẹp quê hương mà Sài Gòn không có, nhưng vì đó là đường về nhà ngoại.


……


Vừa tan học tầm trưa, điện thoại di động trong túi Khải rung lên, cậu nhìn vào màn hình thấy ba mẹ gọi. Thắc mắc vì sao ba mẹ lại gọi giữa trưa, Khải bật máy trả lời.


-“Alô!…”


-“Khải ơi! Ngoại con…. Huhuhuhu”


Cậu hốt hoảng, hỏi mẹ đang khóc ở đầu máy bên kia:


-“Chuyện gì vậy mẹ? Ngoại bị sao hả mẹ?”


-“……”


Câu trả lời của mẹ khiến Khải rã rời tay chân, chiếc điện thoại rớt xuống theo cánh tay buông thõng. Cậu quỳ xuống ngay sảnh trường, khóc tức tưởi, khóc như thể cậu vừa mất đi điều gì quý báu lắm!


                                                                                    Little Stream

20 tháng 3, 2021

Tản mạn: GỬI CHỊ, NGƯỜI ĐÃ QUỲ XUỐNG...

Chị mến,


Sự hỗn loạn trong những ngày qua nơi đất nước Myanmar đã gợi nên sự quan tâm từ nhiều quốc gia. Đâu đâu người ta cũng bàn tán về những cụm từ như: phe phái, sự chết chóc, súng đạn hay biểu tình… Tuy nhiên, hành động quỳ xuống trước những người lính để van xin họ ngừng bắn, ngừng làm hại người dân, của chị đã dấy lên một làn sóng mạnh mẽ về lòng can đảm, và truyền cảm hứng cho bao nhiêu con người về lối sống quên mình vì tha nhân, và kiến tạo hòa bình.


Chắc hẳn việc quỳ gối không có gì quá xa lạ với chị, bởi lẽ trong nguyện đường nhỏ bé, nơi những chiếc bàn quỳ đã ghi dấu bao nhiêu lần chị đặt gối vào ấy, những lần cùng với chị em, hoặc một mình quỳ xuống trước Thánh Thể, để trò chuyện cùng Thiên Chúa và dâng lên Người những tâm tư, ước nguyện của mình và của cộng đoàn. Thậm chí, có lúc hẳn chị đã quỳ hàng giờ để lần hạt Mân Côi hoặc suy ngắm về cuộc thương khó của Đức Giê-su Ki-tô. Tuy nhiên, hôm nay chị cũng quỳ xuống, nhưng trong một bối cảnh hoàn toàn khác với trước đây. Đối tượng hôm nay mà chị quỳ xuống để nài van là chính những người lính, là những người anh em của chị trong Đức Ki-tô. Trong cuộc bạo loạn và đổ máu, Chị xin họ hãy rời đi và để những người dân được sống bình an. Em tự hỏi chị đã lấy đâu ra can đảm đủ mạnh để làm những điều phi thường như thế?




Những ngày qua, em cũng nghe không ích những thông tin trái chiều, khi có nhiều lời phê phán việc làm của chị. Có ý kiến cho rằng chị liều lĩnh và dại dột khi làm hành động như thế. Lý giải cho những phê phán ấy là trong khi người ta sợ hãi né tránh, hoặc mạnh mẽ giáp lá cà để đấu tranh, thì chị – một người nữ tu bình dị – chỉ với tu phục và bàn tay không bước ra trước họng súng của những người lính để van xin họ. Có người nói rằng: “Ngu gì ngu thế! Không chết đã là hên! Biết đâu tay nào đó xả súng vào người bà ấy thì lúc đó đừng nói là xui!”. Hay thậm chí, em còn nghe người ta cho rằng chị thích làm nổi, thích tạo gây cấn (scandal) trong cảnh hỗn loạn như thế, cho nhiều người biết đến. Em chỉ biết ngậm ngùi để lắng nghe, nhưng em không đồng tình với những quan điểm tiêu cực như thế! Em đồng ý với cách làm của chị.


Chị đã gợi lên trong em hình ảnh những vị thánh tử đạo ngày xưa, những con người đã can đảm làm chứng về Chúa, và dám liều mất mạng sống mình để bảo vệ đức tin, bảo vệ anh chị em xung quanh mình, thậm chí là bênh vực cho những kẻ làm hại mình. Có thể, sẽ có những con người không hiểu được điều mà chị làm, đó là điều bình thường thôi chị! Người ta đâu biết rằng những tu sĩ cũng là những con người bình thường, những con người được đắp nên từ da thịt chứ đâu phải thần thánh, để rồi không biết sợ hãi trước những điều nguy hiểm. Họ cũng đâu biết được giá trị của những lời van xin từ tận đáy lòng của một người phụ nữ yếu đuối, đang chảy nước mắt van xin cho anh chị em đồng bào mình trước nguy hiểm cận kề. Họ càng không hiểu vì sao không cầm vũ khí đứng lên, mà lại quỳ van xin nhục nhã như thế? Họ chắc chắn chẳng thể hiểu có trăm vạn cách đấu tranh, vạn cách chết can đảm, sao chị lại chọn lối can đảm “khờ dại” như vậy!


Căm thù, chiến tranh, giành giật cứ nối tiếp mãi thì kết quả sẽ là gì?…


Chẳng có gì bằng chính khao khát sự hòa bình, như chính Chúa Giê-su đã dạy trong tám mối phúc: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (x. Mt 5,9). Hay trong lời kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi đã nhắc tới: “Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”. Vâng! Giá trị đảo ngược nơi người Ki-tô Hữu, mà nhất là nơi người linh mục, tu sĩ lại càng thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Chẳng phải chính Con Thiên Chúa cũng đã chọn lối sống đảo ngược như thế hay sao? Con Thiên Chúa chấp nhận kiếp người nghèo, lao động vất vả để mưu sinh, can trường chiến đấu với những thách thức từ các phe phái chống đối, theo đường lối hòa bình, và cuối cùng là chịu chết trên Thánh Giá cũng chỉ vì cứu chuộc nhân loại. Vâng! Điều mà chị làm hôm nay cũng giúp em nhớ lại hình ảnh Chúa Giê-su, và nhận ra chị đang rập khuôn theo Người cách rõ nét hơn bao giờ hết.


Cám ơn chị đã truyền cho em thái độ sống tìm kiếm và xây dựng hòa bình hơn là chiến tranh, chết chóc. Giúp em hiểu được sự hạ mình tột bậc vì ích chung của những con người vô tội. Giúp em thấy được giá trị của sự quỳ xuống, điều mà người đời cho là nhục nhã, hèn hạ và thiếu khôn ngoan, lại ẩn chứa những giá trị vĩ đại không tưởng. Chính Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, sau hành động can đảm của chị, cũng đã tuyên bố: “Tôi cũng quỳ trên những con phố của Myanmar và nói với họ rằng: Xin dừng bạo lực lại! Tôi giang hai cánh tay và xin họ: Hãy tiến tới đối thoại”[1]. Chắc hẳn chị đã biết trước hành động của mình sẽ dẫn tới kết quả gì? Hoặc sẽ chịu vài phát súng và kết liễu cuộc đời, hoặc chẳng làm được gì vì chị chỉ là một con người nhỏ bé. Nhưng hành động của chị đã đạt tới một kết quả to lớn là truyền sự can đảm và hướng tới đối thoại hòa bình hơn là gây hấn. Có thể chiến tranh, bạo loạn vẫn chưa chấm dứt, không chỉ trên đất nước Myanmar và còn nhiều quốc gia khác nữa, nhưng em tin ý nghĩ về sự quỳ xuống của chị sẽ gây nên ý thức sâu sắc về xây dựng hòa bình.


Hành động can đảm của chị – người nữ tu nhỏ bé – tại một quốc gia nhỏ bé – trong một cuộc bạo loạn giữa bao nhiêu cuộc bạo loạn khác trên thế giới – đã mạnh mẽ tuyên bố rằng việc làm của chị không nhục nhã, không yến hèn, cũng chẳng khờ dại. Đàng khác, chị đang tiến tới trong vai trò là sứ giả hòa bình, loan báo tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Nguyện chúc chị luôn bình an, hạnh phúc và xin Chúa luôn đồng hành cùng chị trong sứ mạng làm sứ giả hòa bình, chị nhé!


                                                 Việt Nam, ngày 20 tháng 3 năm 2021

                                                                        Little Stream


[1] https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2021-03/pope-francis-myanmar-appeal-general-audience-wednesdsay.html

16 tháng 3, 2021

Thơ: MÀU TÍM BẰNG LĂNG

 (Mến tặng những bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân)


Em bảo rằng: “Em thích tím bằng lăng,

Vì nó đẹp, âm thầm mà sắc sảo”.

Tôi hỏi em: “Đẹp vì sao, em bảo?

Chẳng bình thường như hoa khác hay sao?”


 

“Không đâu anh! Tím bằng lăng thanh thoát,

Vẻ tự nhiên, không tô đậm khác thường,

Vẫn kiên cường, giữa màu nắng hơi sương,

Vẫn tím thế! Cho tới ngày rụng xuống”.


 



Tôi hỏi em: “Còn âm thầm lặng lẽ,

Em nói sao cho hoa dại bên đường?”

Em vội cười: “Đúng rồi đấy anh thương!

Vì bên đường, nên chẳng ai để ý.


 

Bằng lăng mọc ở góc vườn nào đấy,

Chẳng ai hay nó tồn tại trong đời,

Hoa nở thầm, rồi rơi rớt im hơi,

Chỉ là thoảng, rất nhẹ thôi trong gió.”


 

Tôi giật mình, chao người nghiêng để ngó,

Thấy môi em, nét đẹp “lạ” in hằn,

Phải chăng là nét đẹp của bằng lăng,

Em sắc sảo hay hoa kia sắc sảo?


 

Ngỡ như em đang đọc lời châu báu,

Hóa hoa kia thành văn tự hữu hồn,

Rồi xiết vào bằng những chiếc môi hôn,

Ôi lạ quá! Em và hoa làm một.


 

Tôi yêu em, không vì em dại dột,

Nhưng vì em thanh thoát với cuộc đời,

Thích âm thầm như màu tím thoảng hơi,

Em ấp iu cả cuộc đời rộng lớn.



Tôi chọn em giữa muôn ngàn hoa gợn,

Vẫn trung kiên và tỏa sắc không ngơi,

Dù sắc hương chẳng xuất sắc tuyệt vời,

Nhưng tôi yêu, trọn đời, bằng lăng tím.


                                                                                Little Stream

13 tháng 3, 2021

Truyện ngắn: TẤM HÌNH CHA DIỆP

 NGHE AUDIO TRUYỆN TẠI ĐÂY

1.

Ngoại làm dấu Thánh Giá, đọc kinh trước bàn thờ Chúa, rồi bước vài bước sang bên vách, ngó lên tấm hình cha Diệp được đặt kính cẩn bên cặp vách căn nhà lá, với tay cầm ba cây nhang đốt lên, đôi bàn tay gầy guộc phẩy cho nhang tắt lửa, nghiêm cẩn cầm nhang bằng hai tay, đưa lên trán, nhắm mắt rồi rầm rì điều gì đó. Sau đó, ngoại cúi đầu thành khẩn rồi cắm nhang lên lon gạo đặt cạnh tấm hình cha Diệp.


Ngoại thường hay đọc kinh và cầu nguyện với cha Diệp. Ngoại hay nói rằng:


-“Cha Diệp vì thương đoàn chiên mà chịu chết, chắc chắc giờ cha cũng tiếp tục cầu nguyện cho đoàn chiên. Con ráng cầu nguyện với cha nhiều vô nha con!”


Đứa bé thơ ngây như tôi lúc ấy chỉ biết gật đầu đồng ý với ngoại, và cứ mỗi lần ngoại đứng trước bàn thờ của cha Diệp, thì tôi cũng chạy lại đứng cạnh ngoại. Lấy tay khều khều, ngoại chia bớt cho tôi một cây nhang, thấy ngoại cúi đầu tôi cũng cúi đầu theo.




2.

Tấm hình cha Diệp mà ngoại đặt lên bàn thờ không mới và đẹp như những tấm ảnh màu ngày nay, mà là ảnh trắng đen. Tấm ảnh phác họa không rõ nét và sắc sảo như những tấm ảnh kỹ thuật số hiện đại, nhưng thay vào đó sắc thái và khuôn mặt của nhân vật trong tấm ảnh lại vô cùng sinh động và gần gũi. Tôi thích ngó tấm ảnh ấy vì nó mang lại cho tôi sự gần gũi, như tấm ảnh của ông ngoại tôi ở bàn thờ bên cạnh vậy.


Sự tích về bức ảnh cha Diệp trên bàn thờ của Ngoại lại thêm phần đặc biệt. Đó là bức ảnh mà ngoại nhặt được tại một bãi rác. Một lần đạp xe ngang bãi rác gần nhà, ngoại thấy một khung gỗ nằm lăn lóc cạnh đường, nghĩ tới mấy tấm hình ở nhà không có khung, chợt muốn lấy tấm khung ấy đặt hình ở nhà vào, nhưng khi giở lên là tấm hình của cha Phanxico Trương Bửu Diệp, vậy là ngoại cung kính cầm tấm hình về và đặt lên bàn thờ bên vách nhà, dưới bàn thờ Chúa.


Ngoại vẫn thường nói cha Diệp hay cầu nguyện cho con cái, cách riêng là ngoại được nhiều ơn lành. Nhất là cái tuổi ngoài bảy mươi của ngoại mà không hề có dấu hiệu nhứt mỏi xương khớp, không đau bệnh gì nhiều, ngoại nói là nhờ Chúa nhậm lời qua cha Diệp, vì bà hay cầu nguyện với cha.


3.

Ngày giỗ cha gần kề, hai bà cháu dắt díu nhau ra bến xe tỉnh, bắt xe lên Bạc Liêu để dự Thánh Lễ ở trung tâm hành hương kính nhớ cha Diệp. Sau gần một giờ ngồi xe, cuối cùng bà cháu cũng tới nơi.


Vừa bước xuống xe, một khung cảnh đông nghẹt người đang chen lấn trong bãi sân rộng. Lần đầu tiên trong cuộc đời toi được thấy khung cảnh đông người như vậy. Chật vật lắm bà cháu chúng tôi mới chen được vào bên trong. Ngó một vòng quanh sân, thấy có người lót chiếu ngồi ở các góc tường, người thì râm ran lần chuỗi Mân Côi, người giở hộp cơm, hay cầm cái bánh bao ăn vội để kịp đọc kinh chung với mọi người. Gian phòng mà ngoại dắt tôi vào là khu vực xin lễ và xin khấn.


-“Nắm tay ngoại cho chắc nha con! Coi chừng lạc, đông người ngoại không kiếm con được”.


Tôi “dạ!” một tiếng rõ to rồi tiếp tục chen vào đám đông, tay nắm tay ngoại thật chặt.


Cuối cùng, bà cháu đã tới khu vực xin lễ, bà xin một lễ tạ ơn cha Phanxico Trương Bửu Diệp, và sau đó dắt tôi trở ra bức tượng mô phỏng về cha Diệp đặt phía trước. Mọi người rất đông, ai cũng chen vào để được sờ vào người cha. Ngoại với đôi tay gầy guộc sờ vào chân tượng, rồi xoa lên đầu ngoại và xoa lên đầu tôi. Bà chắp tay khấn vái râm ran trong miệng, nhìn mọi người xung quanh, tôi thấy họ cũng đang làm như thế.


Khu vực tiếp theo mà bà dắt tôi ra viếng là ngôi mộ của cha Diệp. Đứng đọc những dòng lịch sử được tóm tắt trên một tấm bảng nhỏ, tôi thấy được lòng yêu mến mà Cha dành cho giáo dân, và lòng yêu mến mà giáo dân dành cho Cha từ xưa tới nay như lời kể của ngoại.


Ngôi mộ nhỏ được rào chắn xung quanh, mọi người đứng xung quanh hàng rào nhìn vào bên trong và thành khẩn cầu nguyện. Tôi thấy người ta mua những chai nước suối, những chai dầu xanh hay những bó hoa huệ đặt vào xung quanh hàng rào nơi mộ cha yên nghỉ. Sau hồi lâu khấn vái, họ mang những thứ ấy về như những món “quà thiêng liêng” quý giá mà họ nhận được từ vị mục tử nhân lành.


 4.

Thánh Lễ hôm ấy được cử hành gần giờ trưa do một vị Giám Mục chủ tế, và các cha đồng tế. Bầu không khí trang nghiêm và thánh thiện lạ thường. Dù chen chúc và không đủ chỗ ngồi, nhiều người phải đứng, nhưng tôi thấy hiện lên khuôn mặt của họ sự sốt sắng và khao khát nhiều điều.


Đến phần bài giảng, Đức Giám Mục đã chia sẻ về cuộc đời thánh thiện của cha Phanxico Trương Bửu Diệp, và mời gọi mọi người nhìn vào gương Cha mà quy hướng về Thiên Chúa như Cha xưa kia vậy, đã dám xả thân vì đoàn chiên và bảo vệ đoàn chiên đến cùng.


Phần rước lễ, có tiếng thông báo trên loa: “Kính thưa cộng đoàn, việc rước lễ là nghi thức riêng của người Công Giáo, xin anh chị em không Công Giáo không tham gia nghi thức này”. Tôi hiểu ra trong đám đông những con người đổ về trung tâm hành hương hôm nay, có những người không cùng tôn giáo, nhưng Thiên Chúa đã nối kết chúng tôi lại với nhau qua cha Diệp.


Ngoại cũng lên rước lễ, trở lại chỗ đứng, bà chắp tay khấn nguyện thành tâm như lúc cầu nguyện với cha Diệp ở nhà vậy. Ca đoàn hát bài hát ca ngợi tình thương Chúa thật hay và ý nghĩa, tôi say mê hòa theo những tiếng ca đượm đầy ý nghĩa ấy.


Tan lễ, bà cháu tranh thủ ghé vào nhà quầy lưu niệm quanh trung tâm hành hương. Tôi thấy bà lựa mãi, nhưng cứ lắc đầu nguậy nguậy. Tôi hỏi vì sao, bà đáp:


-“Ngoại muốn kiếm một sợi chuỗi có tấm hình cha Diệp y như ở nhà mình, mà không có!”.


Cuối cùng, ngoại mua cho tôi một sợi chuỗi đeo cổ năm mươi, với Thánh Giá, hình Đức Mẹ và cha Diệp phía sau hình Đức Mẹ. Tôi yêu quý sợi chuỗi ấy như một món quà quý báu, mà đến giờ đây, gần hai mươi năm vẫn còn lưu giữ.


Bữa trưa hôm ấy bà cháu ghé tiệm bún bên đường, một bữa bún riêu thật ngon. Và sau đó bắt xe trở về.


 5.

Hai mươi năm đã trôi qua, ngoại đã không còn bên tôi nữa. Ngôi nhà mà ngoại từng ở vẫn còn giữ nguyên vẹn mọi thứ, đó là nơi mà mỗi lần tôi trở về đều ghé lại hồi lâu, và có khi mỗi trưa chạy sang căn nhà lá của ngoại để ngủ trưa nữa.


Tấm hình cha Diệp gần như còn nguyên vẹn, chỉ có góc hình bên phải có rách một chút, vì thời gian dài lâu và khuôn hình khá cũ, khiến tấm hình phần nào xuống chất lượng. Tuy vậy, khuôn mặt mỉm cười của cha Diệp vẫn sinh động và thân thương như ngày nào. Mẹ tôi đã thay khung hình mới, ép plastic lại tấm hình để không bị hư, và thay lon gạo mà ngày xưa ngoại cặm nhang là chiếc lư hương mới. Dưới hình cha Diệp là hình bà ngoại nằm cạnh ông ngoại, ông bà vẫn nở nụ cười thật tươi nhìn tôi.


Tôi bước tới gần bàn thờ Chúa, làm dấu đọc kinh, rồi lần vài bước sang bàn thờ cha Diệp, cũng làm y như ngoại ngày xưa. Tôi không biết cảm giác của ngoại ngày xưa khi đứng ở vị trí này ra sao? Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy hạnh phúc vì có một người bà đạo đức thánh thiện, đã truyền cho tôi lòng mến Chúa, yêu người và sống đáng chữ hiếu kính.


Tôi vẫn giữ thói quen hành hương cha Diệp mỗi khi về tết và về hè. Trung tâm hành hương nay được trùng tu mới hơn, rộng rãi hơn, khu vực thoáng mát và đẹp hơn xưa rất nhiều. Khu vực mộ của cha Diệp cũng được dời sang một địa điểm đẹp hơn, rộng hơn. Tôi vẫn bước từng bước tới những khu vực mà xưa kia ngoại dẫn tôi đi. Phòng xin lễ, khu vực mộ, dự Thánh Lễ, mua những món quà lưu niệm nhỏ tặng bạn bè và nhất là ăn lại món bún riêu mà nay người con trai kế của cô chủ khi xưa nối nghiệp mẹ.


Có lẽ khi được học biết nhiều, tôi dễ có cái nhìn phê phán, suy đoán những hành động của ngoại hay của nhiều người khi tới đây là không đúng, là sai, thậm chí là mê tín. Nhưng cứ mỗi lần trở lại chốn xưa, tôi vẫn làm y như ngoại, bóng dáng ngoại vẫn đang dắt tôi đi từng bước một.


Trong giấc ngủ trưa nay, tôi thấy mình cùng ngoại đứng trước bàn thờ đốt nhang, thấy bà dẫn tôi đi hành hương cha Diệp, thấy ngoại nói với tôi về gốc tích bức ảnh…


                                                                                    Little Stream

11 tháng 3, 2021

Thơ: LẶNG...!

 Chúa cho con bốn mươi ngày chay tịnh,

Hãm dẹp lòng tà, tơ tưởng gian tham,

Chẳng phải đâu giây phút để càm ràm,

Nhưng lặng lại, hồi tâm về cuộc sống.


 

Phải chăng đời cứ vần xoay sống động,

Phút nào yên để tâm trí nghỉ ngơi?

Cố bao nhiêu rồi chấm hết một đời,

Ta có sống làm rạng ngời Danh Chúa?





Hay vô tâm làm Danh Cha héo úa?

Theo đam mê trần tục của xác thân?

Sống bao dung hay ích kỷ mọi phần?

Mặc nhân thế quanh mình đang lay lắt.


 

Sống Ý Cha hay hưởng ngày cho hết?

Nhận ơn Người hay chỉ lẽ tự nhiên?

Tạ ơn Trời hay than vãn triền miên?

Còn ý thức hay đằm mình vô thức?


 

Lo tâm linh hay chỉ lo lương thực?

Soạn tinh thần hay trang điểm xác thân?

Tự hỏi xem giữa trăm thứ ta cần,

Có thứ nào cho ta phần vĩnh phúc?


 

Bấy lâu qua ta sống vinh hay nhục?

Bước cuộc đời ta đang tiến hay lui?

Đã trưởng thành hay vẫn cứ lui cui?

Tuổi đã lớn, những tâm hồn chắc vững?


 

Hãy bắt đầu bằng bước đi chập chững,

Chẳng muộn đâu, dầu lững thững kiếp người,

Cha đã chờ đến mòn mỏi đôi ngươi,

Mùa Chay thánh, hãy lặng hồi… Cha đợi!


                                                                                        Little Stream

06 tháng 3, 2021

Thơ: ĐÃ CÓ LÚC... (Phút Xét Mình)

 Đã có lúc con lơ là trước Chúa,

Chẳng quan tâm Người mong muốn thế nào,

Mặc Ý Người muốn thể hiện ra sao,

Đời cứ thế, mãi trôi trong vô nghĩa.


 

Đã có lúc cố tình thách thức Chúa,

Thử mà xem Chúa để ý thế nào?

Tội tày đình cũng đâu ngại cao rao,

Rồi đấy Chúa! Chúa làm gì mặc Chúa.



 

Đã có lúc con loại trừ Thiên Chúa,

Nỡ vô tình đẩy tim Chúa xa con.

Khi hân hoan, thấy tâm thức vẫn “ngon”,

Nhưng tàn lụi, chốc hao mòn – tan tác.


 

Đã có lúc mặc định rằng Chúa biết,

Thấu bên trong, suốt cả ý bên ngoài,

Nên thiết gì phải thầm thĩ bên tai,

Chúa tự biết, sẽ ban hoài ân phúc.


 

Đã có lúc con thấy mình chui rúc,

Giả điếc làm ngơ, rồi trút cả cho Ngài.

Trễ nải hàng ngày, như cơm bữa lai rai,

Nhưng thực chất con cố tình muốn thế!



Đã có lúc kính sợ vì vai vế,

Chúa khác chi vị thánh dữ trên cao,

Chống Chúa đi! Rồi tự khắc thế nào,

Cũng bị phạt trầm luân mình muôn kiếp.


 

Ôi lạy Chúa! Xét mình xong kinh khiếp!

Ngàn lỗi lầm, vạn thiếu sót xin tha,

Kíp thương con, dòng nghịch tử xa nhà,

Rày con biết thân la cà đáng tội.



Con xin Chúa đừng xử con quá vội,

Đừng xét hoài những vấp ngã lôi thôi,

Giờ tim con thấy thổn thức, bồi hồi.

Ôi lạy Chúa! Con xin Ngài, lạy Chúa!…



                                                                                Little Stream