27 tháng 2, 2021

Truyện ngắn: CHỊ TÔI

 1.

Chị đưa tay tháo kẹp tóc, tóc dài chấm lưng, tóc hai màu đen trắng lẫn lộn đủ biểu thị cho độ tuổi của một đời người. Hương bồ kết mà chị quen dùng từ xưa tới giờ vẫn thoảng bay, chị vẫn là chị, chỉ có tuổi tác là khác biệt mà thôi.


-“Cưng về chừng nào quầy[1] lên Sài Gòn?”


Kiên vừa ngắm chị, vừa trả lời:


-“Dạ! Ở với chế Hai vài hôm rồi em quầy lên trên trển[2]! Công việc đăng đăng đê đê[3], nhưng nhớ quê, nhớ chế quá! Tranh thủ về vài hôm”


Chị cười, gõ đầu cậu em:


-“Cái thằng, xạo dễ sợ! Quê nghèo rớt mồng tơi, có gì mà nhớ? Một năm về tết với hè là được rồi, lo làm ăn lo cho gia đình của cưng nữa, chớ về hoài… tốn tiền!”


Nụ cười thoáng nở trên môi Kiên, cậu nhìn người chị thân yêu của mình, rồi nói bâng quơ:


-“Nhớ chớ!… Nhớ lắm chớ!”.




2.

Ba má có hai đứa con, con gái cả đặt tên Hương, con trai kế cũng là con út, đặt tên Kiên. Chị Hương thương mến ba má và cậu Kiên vô cùng. Hồi nẫm[4], chị Hương cũng được đi học, nhưng từ hồi Kiên lớn lên, rồi đi học, vì gia đình nghèo quá không lo tiền nỗi cho cả hai chị em tới trường, chị đành hy sinh nghỉ học, nhường tiền cho Kiên đóng học phí. Thấy tình thương chị dành cho mình, Kiên hỏi:


-“Hai nghỉ học có buồn không? Hay Hai đi học để em ở nhà làm phụ ba má!”


Chị trả lời ngay lập tức:


-“Đàn bà con gái đi học có ích gì đâu! Học rồi cũng lấy chồng sanh con. Con trai đi học còn làm ông này ông kia, có tương lai hơn. Thôi cưng đi học, chế ở nhà phụ ba má được rồi.”


Nhắc tới chuyện chồng con là để Kiên an tâm, chứ chị chẳng để ý tới ai ngoài gia đình mình. Chị Hương có khuôn mặt y hệt[5] má, chiều cao và tướng tá giống ba, trông chị rất đẹp. Mái tóc dài là kết quả mà chị gìn giữ từ dạo mười sáu tuổi tới giờ, chỉ dám tỉa cho gọn mỗi dạo chấm quá lưng, chứ không dám cắt. Chỉ có một lần duy nhất chị bán tóc khi má bệnh nặng mà nhà không tiền, lần đó chị cứ đội nón hoài, hễ nhắc tới tóc là chị khóc. Từ lần đó trở đi, tóc chị để dài, không cắt thêm lần nào nữa. Chị nói: “Mái tóc làm Hai nhớ má! Tóc của má hồi còn sống cũng dài y vậy!”. Chị cũng nói: “Ba biểu[6]: “Cái răng cái tóc là gốc con người”, chế giữ tóc là giữ gốc đó!”


Cũng có mấy người đàn ông trong xóm theo đuổi chị, nhưng chị chẳng nhòm ngó gì tới họ. Có ông đến xin ba má được cưới chị, ba má ậm ờ[7] vì tôn trọng quyết định của con gái, chị trả lời ba má: “Giờ ba má lớn tuổi, có một mình đâu ai lo. Thằng Kiên còn đi học, con cũng muốn em út học tới nơi tới chốn, chứ dốt nát khổ lắm! Đời ba má đã khổ, đời con cũng khổ, hổng lẽ để em nó khổ nữa sao ba má? Để chừng nào em ra trường, có công việc ổn định, lo cho ba má rồi con sẽ có chồng.” Ba má chỉ nhìn rôig làm thinh[8] mà thương con gái, chứ biết làm sao trong tình cảnh nghèo và đơn chiếc như vậy.


Lúc Kiên sắp ra trường, ba má trở bệnh nặng, mình chị Hương lo lắng mọi sự. Đưa ba má tới trạm xá, rồi chở lên nhà thương[9] tỉnh; rồi đưa về nhà chăm sóc tới cuối đời. Từng miếng cháo, miếng sữa chị cũng tự tay nấu cho ba má. Miếng ruộng phía sau nhà cũng chị tự tay làm, làm được bao nhiêu tiền gửi một ít cho Kiên đóng học phí, còn lại lo cho ba má. Bệnh già của ba má kéo dài được vài năm thì ba má mất, ba đi sau má vài tháng, chị lập bàn thờ ba má lo phụng dưỡng nhang khói hàng ngày.


Kiên ra trường, tìm được việc ở một công ty uy tín, với năng lực khá giỏi, Kiên được giám đốc tin tưởng, giao việc quan trọng, dần dà cậu ổn định cuộc sống, lập gia đình và có đứa con đầu bụ bẫm. Chị Hương giờ cũng gần năm mươi tuổi, ba má mất gần chục năm; Kiên đi làm tầm[10] sáu, bảy năm, cũng có chút đỉnh gửi về lo cho chị Hương. Chị vẫn quần quật với mảnh ruộng ba má để lại, nhưng dạo về sau ruộng lúa thất bát, phần thì chị không còn khỏe như trước, nên hỗ trợ của Kiên khá quan trọng cho cuộc sống của Chị. Tuy nhiên, chị không bao giờ xin Kiên bất cứ điều gì, chỉ có Kiên thấy chị thiếu thì gửi về mà thôi. Có lần Kiên nói:


-“Chế Hai nè! Mỗi lần chế cần tiền hay bất cứ gì cho em hay nha!”


Chị cười, đáp lời Kiên:


-“Cái thằng! làm như giàu lắm. Cưng còn vợ con nữa chứ một mình đâu mà lo cho chế. Chế có một mình, ăn ngày một lon gạo chưa hết, cá ra ruộng mà xúc, rau ra vườn mà hái, có tốn kém gì đâu!”


Nhưng chị quên mảnh ruộng giờ đã gần khô nước vì hạn hán cả năm nay, vườn tược không ai làm giờ cỏ mọc um tùm, nhà cửa lâu năm từ thời ba má giờ đã xuống cấp trầm trọng. Kiên nói cỡ nào chị cũng không nhận tiền, Kiên ép chị:


-“Chế không nhận em giận luôn!”


Chị cũng trả lời thẳng thừng:


-“Mày giận kệ mày! Mắc gì tới tao! Lo về Sài Gòn đi! Về đốt nhang cho ba má là được rồi! Xong rồi quầy lên Sài Gòn đi! Đi nhanh!”


Kiên vỗ nhẹ vai chị, cười lẫy:


-“Chế ngộ thiệt! Lo cho em cả đời, giờ em lo lại chút xíu mà cũng …”


3.

-“Đi đặt lờ[11] không?” Chị rủ Kiên đi chơi với chị. Kiên vui mừng đồng ý, thế là chị em tay xách nách mang đồ đạc ra đồng bắt cá.


Kiên ngồi trước mũi xuồng, chị Hương ngồi đàng sau bơi xuồng. Lâu lắm rồi Kiên mới có lại cảm giác thân quen như thế.


-“Hai! Lâu rồi chế mới chở em! Hồi nhỏ chế hay chèo xuồng đưa em qua bên kia sông đi học, chế nhớ không?”


Chị cười, nói kháy:


-“Quên rồi! Nhớ gì cái thời nghèo khổ ấy!”.


Kiên được đà hỏi thêm:


-“Hai nè! Gần năm mươi tuổi rồi, không… không…”, Kiên gãi đầu hồi lâu rồi tiếp: “không… lấy chồng hả chế?”


Chị Hương giơ mái chèo giả bộ đánh vô người Kiên, cậu đưa tay đỡ, nhảy ùm xuống nước. Lặn ra phía sau xuồng, tay cầm đầu kia mái chèo, cười kháy chị Hương:


-“Định ‘ống chề’ hả chế?”


Chị Hương chịu thua đứa em nghịch ngợm, cười nói:


-“Nhắc tới mấy ổng! Tao ngán tới cần cổ. Thôi cho tao xin hai chữ bình yên!”


Vậy đó, chị cứ bình thản trước những điều mà người ta hay thắc mắc về đời sống độc thân của chị. Cuộc sống của chị Hương không vướng bận bởi chuyện cơm áo gạo tiền, cũng như chuyện chồng con. Kiên vừa lặn ngụp, vừa nhấn chiếc xuồng đi tới, chị Hương được đà nói tiếp:


-“Chế lo cho ba má, cho cưng xong là mừng rồi! Chế giờ vậy là yên ổn, không còn gì bận lòng nữa!”


Kiên tinh nghịch chọc:


-“Còn chớ! Bận lòng quá trời!”


Chị hỏi vặn lại:


-“Ai bận? tao có bận đâu?”


-“Thì mấy ông ngày xưa đeo Hai đó! Có ông còn ‘ế chỏng’ chờ Hai kìa!” Nói xong Kiên lặn xa chiếc xuồng, vì biết chị sắp dần[12] cho một chèo vì tội chọc ghẹo.


4.

-“Thôi em đi nha! Chế Hai giữ gìn sức khỏe! Lâu lâu em về thăm chế!” Kiên từ giã chị.


-“Ừ! Đi đi! Tết với hè về được rồi, về hoài tốn tiền. Để dành tiền mà lo cho vợ con nữa.” Chị Hương đáp lời Kiên.


Làn gió mát thổi làm hương bồ kết từ tóc chị tỏa ra, bay lên mũi Kiên, cùng với khung cảnh quê hương thân thương khiến bao nhiêu kỷ niệm quay về trong tâm thức của cậu. Nhất là cảm được tình thương mà chị dành cho cậu, cụ thể qua hy sinh cả cuộc đời. Kiên thấy chị sắp khóc, cậu kề sát tai chị nói khẽ:


-“Em có điều này muốn nói nè!”


Chị hỏi:


-“Nói gì? Nói nhanh!”


-“Năm sau… lấy chồng nha chế!”


Dứt tiếng, Kiên chạy một mạch ra xe đang tới, chị Hương vừa đưa tay định đánh vào vai cậu mà không kịp. Chị nhìn em, vừa cười vừa lau nước mắt. Ngồi trên xe, nhìn qua kính thấy chị càng lớn tuổi nhìn y như ba, như má ngày xưa, gầy nhom, áo bà ba, nón lá, tóc bạc và nụ cười dễ mến…  


                                                                                    Little Stream 


[1] Quầy (phương ngữ): trở lại.

[2] Trên trển (phương ngữ): trên ấy (ý muốn nói Sài Gòn).

[3] Đăng đăng đê đê (phương ngữ): bận rộn.

[4] Hồi nẫm (phương ngữ): hồi xưa.

[5] Y hệt (phương ngữ): giống.

[6] Biểu (phương ngữ): nói, dạy.

[7] Ậm ờ (phương ngữ): phân vân.

[8] Làm thinh: thing lặng.

[9] Nhà thương: bệnh viện.

[10] Tầm: khoảng, cỡ.

[11] Lờ: một loại công cụ bắt cá của người miền Tây Nam Bộ.

[12] Dần (phương ngữ): đánh.

24 tháng 2, 2021

Truyện ngắn: ĐIỀU CHƯA XIN...

NGHE AUDIO TRUYỆN TẠI ĐÂY


 1.

Hương đưa hai chân cố dốc hết sức đẩy pe-dan xe đạp, gắng leo chốc nữa là tới con hẻm cần tìm, mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt, ướt cả những sợi tóc loắn quắn dính bẹp vào gò má, và ướt cả chiếc áo mà cô đang mặc. Tiếng cót két cứ vang đều lên từng hồi một, làm xóa tan màn đêm tĩnh lặng trước con hẻm tối thui.


-“Tin… Tin… Tin… Con quỷ, né ra chỗ khác, muốn chết hả?”


Một người đàn ông lái xe cắt ngang đầu xe đạp của Hương trước con hẻm, suýt chút người đàn ông đã đâm sầm vào cô, may mà Hương thắng xe lại kịp. Cô chẳng nói gì mặc cho người đàn ông quay lại dòm ngó, kèm theo tiếng chửi đổng trước khi chạy khuất hẳn.


Cô cắm đầu chạy vào con hẻm, một mạch tới căn nhà lụp xụp cuối con hẻm, vứt xe đạp sang một bên bức tường cũ kỹ, làm vang lên cái “cốp”, những con nhái, ễnh ương chợt thinh lặng vì tiếng động quá mạnh ấy, có lẽ khiến chúng sợ hãi.


–“Anh Thái! Sao anh… Sao anh… Hu, hu, hu, hu!”


Hương quỵ xuống trước cảnh lõa lồ của cặp tình nhân đang âu yếm mặn nồng trên chiếc giường ọp ẹp, và ánh sáng mờ ảo của bóng đèn vàng dây tóc. Vừa nghe tiếng Hương, Thái vội đứng dậy, ngượng ngùng vớ chiếc gối trên giường che lại phần lõa lồ trên người mình. Người phụ nữ lúc nãy cùng ân ái với Thái đang co ro vớ tấm chăn che mình lại, liếc nhìn Thái trợn trắng. Thái chẳng nói được gì với Hương, mọi chuyện đã quá rõ.




2.

-“Cha ơi! Chồng con… Chồng con… có vợ bé rồi!”


Hương vừa nói vừa khóc với cha xứ sau khi tan lễ chiều. Vị linh mục chẳng nói được gì để an ủi Hương, chỉ biết ngồi yên để cô khóc. Có lẽ chỉ có giọt nước mắt mới làm cho cô khuây khỏa nỗi đau đớn vì sự phản bội trắng trợn của Thái mà thôi. Cô khóc bởi lẽ còn thương Thái rất nhiều, tình thương của một người phụ nữ chung thủy một khi bị phản bội vẫn là điều không gì có thể bù đắp được. Vị linh mục lớn tuổi, đầu tóc bạc trắng và khuôn mặt âu sầu trước nỗi buồn của Hương, ông chỉ lắc đầu rồi thi thoảng nói:


-“Khóc đi con! Khóc nữa đi! Khóc cho hết uất ức!”


Hương tiếp tục òa lên trong nước mắt.


3.

Hương và Thái quen nhau từ hồi còn là giáo lý viên của giáo xứ. Chuyện tình yêu của hai người đẹp đến nỗi bất kỳ cặp tình nhân nào trong giáo xứ quen nhau cũng lấy hai người ra làm gương mẫu. Hương dạy lớp Đồng Ấu, còn Thái dạy lớp Bao Đồng. Cứ mỗi chiều Chúa Nhật dạy giáo lý, anh chạy xe thật sớm qua nhà rước Hương tới nhà thờ, càng thích hơn khi nụ cười của cô khiến anh hút hồn, vì nụ cười ấy ẩn chứa sự đơn sơ, dễ thương và dịu dàng khó tả. Khuôn mặt trái xoan của Hương, mỗi lần lén nhìn cô qua khung cửa sổ trong giờ dạy giáo lý, khiến cho Thái cứ bồi hồi khắc khoải không yên. Hương hát cũng rất hay, Thái đánh đàn gui-tar cũng không tệ, vậy nên mỗi lần cô tổ chức sự kiện cho các em nhỏ trong lớp, cô hay nhờ anh đàn cho các tiết mục văn nghệ của các em. Càng gần gũi, tình thương mến hai người tiến triển càng nhanh và sâu đậm hơn, cuối cùng đến lúc anh chị ngỏ lời và tiến tới hôn nhân, với sự đồng ý của gia đình hai bên.


Ngày lễ hôn phối, cả giáo xứ, từ các em đồng ấu mà Hương đang dạy, cho tới các em lớp bao đồng của Thái, thân bằng quyến thuộc hai họ và cả xứ ai cũng vui mừng vì cuộc hôn nhân ấy. Cha xứ đọc lời tuyên bố anh chị chính thức là vợ chồng, cả nhà thờ vỗ tay hoan hô nồng nhiệt, chúc phúc cho tình yêu của đôi bạn trẻ, mong họ sống trăm năm hạnh phúc.


4.

-“Hương!… Hương ơi!…..”


Thái lay vai Hương, cô quay mặt ra phía cửa, quay lưng về phía anh. Cô không muốn nói gì với anh nữa.


-“Hương! Anh xin lỗi em. Anh hứa…”


Nghe tới chữ “hứa”, cô quay lại, nước mắt ràng rụa, nhìn anh rồi hỏi tới tấp:


-“Hứa gì anh? Anh hứa làm sao? Hứa bao nhiêu lần rồi? Và bao nhiêu lần nữa? Hu… hu… hu…”


Thái cụp mặt, không nói gì với Hương được, anh chỉ ngồi lẳng lặng nhìn Hương khóc tức tưởi. Hồi sau, đỡ xúc động hơn, cô nói:


-“Tui thương anh thiệt lòng mà, tui có dối trá anh ngày nào đâu? Anh có nhớ đã hứa gì với tui khi làm lễ hôn phối không? Anh hứa với tui có Chúa làm chứng, anh không sợ tội hả?”


Anh vừa ngẩng lên nghe Hương nói, rồi lại cụp mặt, nghe cô khóc. Chốc nữa, cô lại nặng lời hơn:


-“Anh đi đi! Đi khuất mắt tui! Anh không đi hả? Tui đi… Tui đi cho anh vừa lòng!”. Cô chạy ra trước nhà, ngồi lên chiếc xe đạp cũ, đạp thật nhanh cho khuất dáng. Thái chạy theo trước cửa định đuổi theo nhưng không kịp, anh chỉ kịp kêu lên vài tiếng “Hương! Hương!” rồi ôm mặt khóc.


5.

-“Chị chuẩn bị tâm lý chưa? Tôi có chuyện này muốn nói với chị?”


Vị bác sĩ hỏi Hương sau khi khám bệnh và cầm kết quả trên tay. Hương lo lắng nhưng muốn biết mình bị gì, vội hỏi bác sĩ:


-“Dạ rồi! bác cho em biết đi ạ! Em sẵn sàng rồi!”


Vị bác sĩ ngập ngừng hồi lâu, nhìn khuôn mặt đáng thương của Hương, rồi nói:


-“Thành thật chia buồn với chị, kết quả khám bệnh cho thấy chị không thể có con được, vì chị bị hiếm muộn.”


Hương bưng mặt khóc trước vị bác sĩ, Thái vẫn đợi phía ngoài phòng bác sĩ, chưa biết chuyện gì xảy ra.


Vợ chồng Hương khao khát có được một đứa con, nhưng lâu nay không có được. Hai người chạy chữa nhiều nơi, và khấn vái nhiều chỗ, nhưng chưa có chỗ nào mang lại kết quả như mong muốn. Từ sau hai người cưới nhau, đã hơn ba năm mà vợ chồng phải chờ đợi, mãi cho đến lúc bác sĩ thông báo căn bệnh mà Hương gặp phải.


Bước chân ra khỏi phòng bác sĩ, Hương thất thểu, rưng rưng sắp khóc, đôi mắt đỏ hoe, nhìn Thái mà chẳng biết mở lời thế nào:


-“Anh Thái!…. Em… hm…hm…hm…”


Thái lo lắng quan tâm tới Hương, anh dìu cô ngồi xuống dãy ghế chờ, rồi nhẹ nhàng hỏi:


-“Sao vậy em? Nói anh nghe. Bác sĩ nói thế nào?”


Hương kể mọi chuyện cho Thái nghe trong nước mắt. Anh ôm Hương, lấy bàn tay xoa lưng cô, đôi mắt anh ngây dại.


6.

-“Mẹ ơi! Xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho vợ chồng con.”


Vợ chồng Hương cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ ban ơn trước sân nhà thờ, chiều nào vợ chồng cũng cầu nguyện cùng Đức Mẹ sau khi tham dự Thánh Lễ ban chiều, nhất là từ dạo biết căn bệnh hiếm muộn, Hương càng cầu nguyện khẩn thiết hơn nữa. Nhưng lần lần ngọn lửa hy vọng nơi cô như nguội dần, Hương không muốn xin nữa vì kết quả vẫn chỉ là con số không. Thái nghỉ đi nhà thờ, chỉ còn Hương tự đạp xe đi một mình.


Ba mẹ của Thái gọi hỏi thăm, lần nào cũng nhắc: “Khi nào có cháu nội cho ba má bồng ẵm?”, anh chỉ cười hờ vì không biết trả lời thế nào. Cố nói gì đó cho qua loa mà lòng anh trĩu nặng, tự trả lời lòng mình: “Làm gì có được!”. Nói vài lời thăm hỏi ba mẹ rồi tắt máy. Anh đâm ra buồn phiền, hay uống rượu, đi chơi thâu đêm. Lần nào quay về nhà, thấy khuôn mặt của Hương là anh nhớ tới chuyện hai người không thể có con được, khiến anh buồn vô tận. Anh không muốn quay về căn nhà khi Hương còn thức giấc, chỉ muốn về nhà trong hơi men rồi vùi đầu vào ngủ,rồi sáng đi làm. Thái dần bê trễ trong công việc, anh bị đuổi việc ở công ty, anh chán nản chỉ ở nhà ăn bám đồng lương ít ỏi của Hương. Cô buồn phiền tâm sự với anh, anh muốn tránh né xách chiếc xe máy đi chạy grab, nói là chạy xe chứ thực ra anh muốn tránh khỏi những lời nói dai dẳng của Hương khiến anh nhứt đầu và suy nghĩ nhiều.


Hương nấu cơm, chuẩn bị đồ ăn đợi Thái về, nhưng anh chẳng chịu về mà cứ vùi đầu với đám bạn uống rượu. Chạy xe được một ít tiền thì anh uống rượu hết, chẳng muốn góp gì cho gia đình, cũng chẳng quan tâm tới người vợ ở nhà nữa. Từ rượu chè dẫn tới chuyện ngoại tình, anh bắt đầu quen biết và qua đường với những cô gái khác. Hương hoàn toàn biết chuyện, vì được bạn bè cho hay, cô đã khóc rất nhiều, nhưng cứ mỗi lần anh về nhà là vùi đầu ngủ, cô chẳng nói được chuyện gì với anh. Có lần trong hơi men, anh thét lên:


-“Cô chẳng cho tôi được đứa con, cho ba má tôi đúa cháu để ẵm bồng. Được rồi! Tôi ngủ với con khác cho cô vừa lòng”.


Hương bực mình đập vào ngực và bả vai Thái, nhưng anh vẫn tiếp tục ngủ trong cơn say, mặc cô cựa quậy với nỗi đau kinh khủng.


7.

-“Cha ơi! Anh Thái…. Hu, hu, hu…”


Hương chia sẻ với cha xứ mọi chuyện mà cô không nói được với Thái, cha an ủi cô trong những nỗi đau buồn này. Có lần cha đã hỏi thử lòng Hương:


-“Có bao giờ con nghĩ tới chuyện ly dị với Thái không?”


Hương lắc đầu nguầy nguậy, trả lời ngay lập tức:


-“Thưa cha! Con là giáo lý viên, con từng đứng lớp dạy các em về đạo lý Chúa, lẽ nào con làm trái điều Chúa dạy. Đó là chưa kể tới chuyện con và Thái thương nhau thật lòng, con biết chuyện tới nông nỗi này là do con không thể cho Thái một đứa con như anh mong muốn thôi! Chứ thực lòng con biết Thái vẫn thương con nhiều lắm! Con tin vậy!”.


Cha xứ gật đầu, thở nhẹ, thầm nói: “Tạ ơn Chúa!”. Cha nhìn lên khuôn mặt của Hương, tuy nhiều khắc khổ nhưng đầy niềm tin và hy vọng. Cha hỏi:


-“Con có tin con có thể thay đổi chồng con không?”


-“Thưa cha, con không thể làm điều đó, nhưng với ơn Chúa, con tin mình làm được!”. Hương đáp lời cha.


8.

-“Alo! Hương hả! Thằng Thái đang….” Hương buông thõng chiếc điện thoại rớt xuống đất cái “cốp”, ngồi thẫn thờ hồi lâu. Cô bạn báo tin cho Hương hay Thái vừa dắt một cô gái trẻ vào con hẻm cuối đường bên kia cây cầu gần nhà Hương.


-“Chúa ơi! Con phải làm gì đây? Đối mặt… Không! Làm sao con đủ can đảm nhìn họ?… Trốn tránh! Không! Làm sao con phải tránh né họ? Mặt họ… Không! Thái là chồng con, là món quà Chúa ban cho con mà! Giờ anh ấy đang sa chước cám dỗ, lẽ nào con bỏ mặt anh ấy? Giúp đỡ… Ôi! Chúa ơi giúp vợ chồng con với! Chúa ơi!”.


Cô đứng vụt dậy, ra trước sân leo lên chiếc xe đạp dựng bên vách tường. Đồng hồ đã điểm gần chín giờ tối, cơm tối vẫn còn nguyên đợi Thái về ăn. Hương đạp xe thật nhanh tới nói mà cô bạn chỉ, và sự tình đã rõ ràng.


9.

Thái leo lên xe máy, chạy thật nhanh tìm theo dấu xe đạp của Hương. Anh sợ… Hương nghĩ đến đường cùng, sợ cô sẽ nghĩ quẩn mà tự tử. Thái chạy ra các bờ hồ, ao hồ gần nhà nhưng không thấy. Dọc tìm các công viên, anh cũng không thấy. Chợt anh sựt nhớ nơi mà anh và Hương trước đây hay tới, anh lên ga rồi chạy một mạch.


“Két……….!” Thái thắng xe gấp gáp, đẩy cửa bước vào, anh thấy Hương đang quỳ trước tượng Đức Mẹ ban ơn, nước mắt ràng rụa, chỉ khóc và chẳng nói điều gì, chiếc xe đạp bị cô quẳng sang bụi cỏ bên cạnh, đồng hồ đã hơn mười hai giờ trưa.


Thái tới gần Hương, bàn tay run run chạm vai Hương, vì sợ cô sẽ phản ứng mạnh, yếu ớt nói:


-“Hương! Anh xin…”


Hương quay sang ôm Thái vào lòng, khóc nứt nở, Thái cũng ôm Hương vào lòng khóc.


-“Hương! Anh xin lỗi em! Xin lỗi em thật nhiều, em tha thứ cho anh! Anh biết lỗi của mình rồi”.


10.

Chiều hôm ấy, hai người ngồi cùng nhau trước Thánh Thể Chúa, cùng kể cho nhau những sự thật, tâm sự những điều thầm kín trong lòng. Hương hiểu được nỗi đau đớn của anh khi cô không thể sinh cho anh một đứa con, rồi áp lực từ phía ba mẹ, bạn bè đồng nghiệp, dần kéo anh đi tới chán nản và muốn buông xuôi. Thái cũng hiểu anh đã bỏ rơi Hương cách tàn tệ như thế nào. Hương nhớ rất rõ đã chờ Thái bao nhiêu đêm để ăn cơm tối, rồi cô thui thủi đổ cơm vào thùng rác vì đã quá khuya mà anh chưa về. Hương không hề nhận được sự an ủi từ Thái – người chồng mà cô yêu thương nhất. Cô cũng nhớ rõ có bao nhiêu cuộc điện thoại báo cho cô hay anh đi với cô nào ngoài kia, nhưng lần gần đây nhất, khi tim cô không thể dung túng được nết xấu ấy của anh, cô đã đứng lên và phản ứng.


Thái xấu hổ, thú thật với Hương những cô gái mà anh đã từng có mối quan hệ ngoài luồng. Hai người đầu nhận ra mình có lỗi, có trách nhiệm. Sau cuộc trò chuyện ấy, Hương xin cha xứ ban bí tích Hòa Giải cho hai người, và trở về nhà trong bình an, tha thứ.


Căn nhà mọi khi lạnh tanh, yên ắng chợt vang lên tiếng cười rộn rã, ấm áp. Lâu lắm rồi, có lẽ hơn một năm nay Hương chưa nghe tiếng nói của Thái trong tỉnh táo và đầy đủ ý thức, cô cũng được dịp tâm sự với anh nhiều hơn, nhất là nỗi lòng mà cả năm nay mình cô phải đối mặt.


Thái và Hương lại cùng nhau đi lễ mỗi chiều, Hương vẫn dạy giáo lý như xưa nay, Thái tìm được việc mới ở một công ty gần nhà, vợ chồng sống trong hạnh phúc. Cùng chung tay gầy dựng gia đình mà gần như vỡ nát vì những hiểu lầm và thách đố.


11.

-“Chúc mừng anh chị! Thai nhi trong bụng là bé trai! Anh chị chuẩn bị đón bé chào đời nhé!”


Bác sĩ báo tin cho Hương và Thái, anh chị quay nhìn nhau và mỉm cười trong hạnh phúc. Vị bác sĩ ấy cũng chính là người trước đây gần hai năm báo tin Hương không thể có con được, nay báo tin cô đang mang một bé trai trong bụng. Ông bất ngờ trước những điều này vì kết quả khám bệnh hồi trước của Hương vẫn còn lưu ở bệnh viện.


-“Anh chị làm sao mà được…..?”.


Hương chỉ cười mà chẳng trả lời được, vì chỉ Thái và Hương mới hiểu được. Câu trả lời văn gọn của Hương là:


-“Nhờ Chúa cả đấy bác sĩ!”.


Những giọt nước mắt, lời than van, sự hy sinh âm thầm, chịu đựng và thách thức đức tin mà Chúa dành cho Hương đã đủ minh chứng niềm tin của cô và Người. Hương còn đưa cả Thái trở lại với đức tin ngay chính, vực dậy niềm tin của anh nữa. Và đứa con trong bụng là món quà mà Chúa ban tặng cho vợ chồng Hương, dù khoa học bó tay trước căn bệnh mà cô mắc phải.


Hương thấy mình như chính bà Ê-li-sa-bet năm xưa, cô hiểu được niềm vui khi có được đứa con trong hoàn cảnh bất khả thi, cô thấm được tình thương mà Chúa dành cho vợ chồng cô.


12.

Kỳ tĩnh tâm Mùa Chay, cha xứ nhắc lại lời của Chúa Giê-su khi nói với các môn đệ rằng: “Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (x. Ga 16,24). Đồng thời, cha cũng nhắc lại lời của thánh Gia-cô-bê tông đồ: “Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý…” (x. Gb 4,2-3).


Hôm ấy, trên chuyến xe đưa Hương từ nhà thờ về nhà, cô vỗ vai rồi kề sát tai Thái mà nói khẽ:


-“Anh à! Hình như trước đây vợ chồng mình đã xin Chúa bao nhiêu điều, nhưng có một điều vợ chồng mình lại không xin”.


Thái bất ngờ, hỏi Hương:


-“Điều gì vậy em?”


-“Xin sống hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, anh à!”.


                                                                                        Little Stream

20 tháng 2, 2021

Truyện ngắn: GỒNG...

 1.

-“Tết tết tết tết đến rồi! Tết tết tết tết tết tết đến rồi!…”


Bài hát quen thuộc mà mấy bữa nay nhà hàng xóm cứ mở hoài, bài hát khiến ông Ba thấy ám ảnh cái chữ “tết”. Giờ có ai hỏi ông: “Tết chuẩn bị gì chưa?”, thì ông cứ cúi đầu, buồn bã, chẳng trả lời mà bỏ đi nước một. Nhiều lúc ông chẳng muốn gặp ai vì cái tết đối mang lại cho ông quá nhiều mệt mỏi và lo lắng.


2.

Gần tết nghĩa là số nợ khổng lồ đã đến ngày trả. Số nợ có từ lúc bà Ba bị bệnh ung thư, ông mượn tiền chạy chữa cho bà, lo kéo dài mạng sống được gần một năm thì bà chết. Bà ra đi đồng nghĩa với đống nợ vay nóng đã chất lên như núi. Bà đã đi được gần chục năm rồi, mà số nợ ấy cứ lay lất và sinh lãi cao, nay tới hồi bọn đòi nợ siết nhà, siết đất và nhiều lúc chúng muốn lấy luôn cả mạng ông nữa.


Vợ chồng ông có một đứa con trai duy nhất, nhưng nó cũng theo bà Ba sau một năm bà qua đời. Thằng Tín – con trai ông bà – cũng chịu khó làm ăn, nhưng vì số nợ càng lớn dần, nên nó đành xa ông Ba lên Sài Gòn kiếm việc làm, mong có tiền phụ ông Ba trả nợ. Tại Sài Gòn, nó kiếm được chân giao hàng cho siêu thị, tuy vất vả vì công việc liên tục từ sáng đến chín giờ tối, nhưng nghĩ về ông Ba nó thương ông lắm. Cố làm ngày đêm nhưng cuối cùng bị tai nạn giao thông trong một lần giao hàng ban đêm. Nó bị một đám thanh niên đua xe trên đường đâm sầm vào xe nó rồi bỏ chạy, thằng Tín cố giãy giụa mà không ai cứu giúp vì chỗ nó bị thương là chỗ đất hoang, nó đã ra đi theo bà Ba trong đêm ấy.




Điện thoại từ Sài Gòn báo tin thằng Tín chết cũng là ngày giáp tết, ông Ba không đứng lên nổi khi hay tin dữ báo về. Cú sốc thứ hai quá lớn sau cú sốc bà Ba chết. Vì không tiền lo nổi cái đám cho con, ông xin bà con mỗi người một ít rồi lên Sài Gòn hỏa táng cho thằng Tín, ôm hũ cốt về để trên bàn thờ. Hôm hỏa táng chỉ có mình ông đứng trơ trọi với vài nhân viên nhà tang lễ. Về nhà, ông đem tấm hình thằng Tín đặt bên cạnh hình mẹ nó, đốt nhang, sá vài sá, ngồi bệt xuống đất, nước mắt giàn giụa. Bà con thấy cảnh ấy thương tình ông tuổi già một mình, nên chung tay giúp đỡ miếng ăn, áo mặc, nhưng chỉ là những trợ giúp tạm thời, chứ nỗi lo về nợ nần và nhiều khoản khác ông vẫn phải gồng mình lên gánh.


3.

Không biết suốt gần chục năm qua sống một mình, có bao nhiêu việc mà ông đã làm. Chiếc xe hồi trước thằng Tín chạy, được gửi về cho ông sau khi nó chết, ông sửa lại chút ít rồi chạy xe ôm. Nhưng càng lúc chạy xe càng ế, ông chuyển sang làm công nhân cho vài nhà máy trong tỉnh, cuối cùng là nghề bán vé số. Cầm chồng vé số trên tay ông cứ vẫy và rao bán hết chỗ này đến chỗ khác, nhưng thời buổi kinh tế khó khăn, người mua vé số cũng ít, nên chẳng bán được bao nhiêu, mỗi ngày chỉ đủ mua cơm ăn để sống qua ngày. Số tiền kiếm được đã ít ỏi mà tiền nợ cứ chồng chất hết lãi mẹ đến lãi con.


Chưa đêm nào ông Ba nằm ngủ ngon giấc, vì nơm nớp lo sợ cảnh chủ nợ tới đòi nợ, mà mỗi lần chúng tới thì kinh hãi lắm. Ông nài nỉ, van xin đến cỡ nào chúng cũng không chịu tha, có hôm còn đánh ông túi bụi, khiến mặt mày bầm giập không còn chỗ lành. Cứ mỗi lần chúng tới là vài món đồ trong nhà cứ lần lượt bị chúng thâu tóm, ngay cả cái lư hương mà ông cặm nhang cho bà Ba và thằng Tín, cũng bị chúng lấy mất. Ông đành lấy lon sữa bò bỏ cát vào mà đốt nhang cho hai mẹ con thằng Tín. Riết rồi ông đâm ra chán nản, muốn bỏ cuộc trước những lần bị đòi nợ, khuôn mặt ông trở nên hầm hầm ít nói, bọn đòi nợ tới ông chẳng nói tiếng nào, chỉ đáp trả đôi câu rồi để chúng đánh. Ông thực muốn chúng đánh cho ông mau chết để theo bà Ba và thằng Tín, bởi nhìn cuộc sống hiện tại ông ngán ngẫm quá đỗi.


Nhiều lúc ông nghĩ đến cái chết, nhưng ngẫm làm sao trả được cái nợ thì mới mong nhắm mắt mà an nghỉ, chứ trốn đời kiểu này thất đức lắm. Ông biết vợ và con chẳng muốn ông nghĩ quẫn như thế, và cái cảnh túng bần thế chẳng ai mong cả, nhưng con đường tương lai như thể bị chặn đứng lại, trước mắt ông chỉ là ngõ cụt. Khung trời màu đen sẫm cứ bám lấy đôi vai gầy guộc, đôi mắt lõm sâu hoắm và đôi chân yếu ớt.


4.

Chiều 28 tết, bắt chiếc ghế đẩu ra hàng ba ngồi nhìn đường phố, ông thấy người ta náo nức chuẩn bị ăn tết. Những bộ đồ mới thật đẹp, nhìn người rồi ông tự nhìn mình với bộ đồ cũ nhiều chỗ sờn rách, tự nhủ:


-“Bà ơi! Bộ đồ hồi đó bà mua cho tui lúc gần tết. Bà mua cho tui một bộ, bà một bộ và thằng Tín một bộ nữa. Tới hôm nay tui vẫn mặc nó, cũng đang đón tết, nhưng… có một mình bà ơi!”


Một chiếc xe chạy ngang, dáng một thanh niên giao hàng cho siêu thị, mặc chiếc áo màu xanh với cái nón bảo hiểm giống y con trai ông hồi trước, ông chợt nhớ thằng Tín vô ngần:


-“Thằng Tín, mày bỏ ba lại một mình vậy con! Phải chi hồi đó con nghe ở nhà với ba, chắc đã không ra nông nỗi. Tại ba nóng vội trả nợ quá mà hại con, Tín ơi! Hu…hu…hu…” rồi ông khóc một mình.


Tiếng nhạc xuân từ nhà hàng xóm vẫn vọng đều lên bên tai ông: “Tết tết tết tết đến rồi, tết tết tết tết tết tết đến rồi!…”. Định bỏ vào nhà, nhưng ông Ba gắng vượt qua cảm xúc bực mình thường ngày để nghe cho trọn bài hát, hết bài này rồi tới bài khác. Chợt ngó ra trước sân nhà, có một nụ mai đã hé nở và rung rinh trong gió, xung quanh nó là những chiếc nụ non khác đang chờ ra bông để đón cái tết sắp tới. Ông từ từ bước ra sân tới chỗ cây mai, tiếng nhạc đã chuyển sang bài Xuân Này Con Không Về do ca sĩ Duy Khánh trình bày: “Con biết bây giờ mẹ chờ tin con…”


Lấy đôi tay gầy guộc rờ lên cánh mai, rồi rờ sang những chiếc mầm mới nhú. Ông chẳng nhớ nhà mình đã có cây mai này, cũng chẳng biết trồng nó từ khi nào. Nhưng nhìn vào màu sắc rực vàng và thấy những cánh hoa nhỏ xíu rung rinh nhè nhẹ, ông Ba nở nụ cười, nụ cười mà gần chục năm nay dường như chưa xuất hiện trên khuôn mặt ông bao giờ. Nụ cười hòa với nước mắt, rồi ông nói:


-“Ừ Bà! Tui biết rồi! Tết đến rồi! Tui sẽ ăn tết với bà! Thằng Tín nhớ về với ba nghen con! Đừng lo làm quá mà quên tết nhứt!”.


Nhà hàng xóm vẫn vọng ra những câu cuối của bài hát: “…thương con, xin đợi ngày mai!”.


                                                                                        Little Stream

02 tháng 2, 2021

Truyện ngắn: TÂM SỰ CỦA CHIM NON

Tôi được sinh ra không như anh chị của mình, càng khác biệt hơn khi so với bầy đàn mà tôi thuộc về. Ngắm kỹ tôi cũng có bộ lông xen kẽ giữ màu xám tro và nâu đất, đôi mắt nhỏ thoăn thoắt quan sát thế giới quanh mình, cái mỏ nhọn và dài để gắp thức ăn, rỉa lông và bảo vệ bản thân. Nhưng điều khác biệt mà mãi cho đến khi anh chị em đồng trang lứa tập nhảy, tập bay, thì tôi không làm được như họ, vì … một chân bị dị tật.


Những ngày đầu với tôi quá chênh vênh, không đứng được dù chỉ là một chút. Chỉ cần rướn người trụ lên một chân là vội ngã nhào xuống, có hôm tôi suýt rơi từ chiếc tổ trên cành cây xuống đất, may mà mẹ tôi kịp đưa chiếc mỏ to khỏe gắp cái chân què của tôi và giữ lại. Nhìn mọi người từ lúc tập tành và sải cánh bay, tôi thèm được như họ, nhưng thay vào đó là sự tủi thân. Tôi tự nhủ mình: “Cho vừa cái thân mày – con chim què!”.


-“Anh Hai cõng em bay ra bầu trời xanh kia nha!”  Tôi năn nỉ người anh cả, với đôi chân to khỏe và đôi cánh dài lực lưỡng, nhưng anh đáp lại bằng sự từ chối:


-“Anh có hẹn với các bạn đi săn mồi, cõng em theo sao anh săn được! Thôi em ở nhà ngoan, anh sẽ đem thức ăn về cho em nha!” nói xong anh đập cánh bay ra bầu trời rộng lớn. Thoạt thấy người chị kế cũng sắp đi đâu đó, tôi vội xin:


-“Chị Ba cõng em đi chơi nha!” Chị tôi, đang rỉa lại bộ lông nâu của mình, cũng từ chối:


-“Thôi cưng! Chị hẹn với mấy chị chào mào, sáo sậu ra bờ suối tắm, phơi nắng, rỉa lông và thi hót, cõng cưng theo chị…” Chị cười hắc vài tiếng rồi bay đi, chẳng đếm xỉa gì tới chú chim què như tôi.




Mẹ bay đi kiếm thức ăn về, và không quên thưởng tôi vài chú giun to, béo. Thấy mẹ, tôi òa khóc:


-“Mẹ ơi! Sao con lại bị què? Sao mọi người khi dễ con? Sao chẳng anh chị nào cõng con đi chơi? Sao…? Sao…?”. Tôi rúc đầu vào cánh mẹ, mẹ lấy mỏ mổ nhè nhẹ lên đầu tôi an ủi, lặng lẽ chẳng nói gì, đôi mắt hướng ra bầu trời xa xăm. Chợt mẹ quay xuống nhìn tôi và hỏi:


-“Con muốn biết nhảy và bay như mọi người không?


Tôi vui mừng trả lời lập tức:


-“Dạ muốn! Dạ muốn!”


-“Nhưng con sẽ đau, con chịu chứ?” Mẹ phân vân hỏi tôi.


-“Dạ chịu! Miễn là bay được và đi được! Giá nào con cũng chịu”.


Bài học đi và bay của tôi chính thức bắt đầu. Mẹ là cô giáo của tôi. Mẹ dịu hiền nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc, nhất là những lúc tôi nản chí vì quá đau, hoặc muốn bỏ cuộc, mẹ không ngần ngại hét vào tai tôi những lời nóng giận, rồi sau đó nhanh chóng dịu giọng mà khuyên nhủ.


Đầu tiên tôi học cách đứng. Nghĩ mà tội cho mẹ khi phải co một chân giả tàn tật như tôi, có hôm mẹ cũng suýt ngã nhào vì làm như thế. Ban đầu mẹ cho tôi giang hai cánh ra để bám vào hai nhánh cây nhỏ, dần dà bỏ bớt một bên cánh, và sau cùng là bỏ cả hai cánh. Lúc này, mẹ dạy tôi nhảy lò cò, phải cố bằng mọi cách giữ thăng bằng không té, tôi loạng choạng vì những bước đầu khó khăn. Sau mỗi lần tập mẹ lại nhỏ nước từ miệng ra xoa lên chỗ bị thương của tôi. Từ cánh tới chân và nhiều chỗ da bị rách, chỗ lông bị mất vì bị cây nhọn đâm trúng. Tôi khóc mẹ xoa. Sau vài tháng, tôi đứng và giữ thăng bằng được chút ít.


Bài học thứ hai là tập nhảy đúng hướng thay cho việc nhảy loạn xạ như trước đây. Cái thân to đùng đè lên cái chân lành lặn duy nhất của tôi, khiến việc giữ thăng bằng đã khó, nay còn di chuyển đúng hướng còn khó hơn biết bao nhiêu. Mẹ vào vai kẻ thù tấn công tôi, dùng chiếc mỏ nhọn mổ vào cái chân què co quắp của tôi tới tấp. Lúc đầu tôi đau quá giãy nảy, mẹ xoa xoa rồi … tiếp tục tấn công. Thậm chí mẹ làm chảy máu, rách da chân tôi nữa, năn nỉ mấy mẹ vẫn không ngừng lại, tôi đành đứng lên và nhảy thật nhanh tránh những cuộc tấn công như thế. Lúc ấy tôi ghét mẹ vì sao lại tàn nhẫn với tôi như thế.


Bài học thứ ba là tập đánh đu trên không. Dùng sợi dây gỗ rất dai tìm được trong rừng, mẹ cuốn chặt vào chân không què của tôi. Đầu dây kia mẹ cột vào nhánh cây đủ chắc, từ trên tổ, mẹ lấy mỏ hất tôi rớt xuống khoảng không. Ban đầu, tôi không biết thế trụ, đau quá hét toáng lên: “Mẹ ơi! Cứu con! Đau quá!” Mẹ vội bay xuống gắp tôi lên, nhưng mấy lần sau mẹ không giúp nữa. Những lần tập đầu tiên có lúc ngỡ hai chân tôi bị chẻ ra làm hai, đau đớn kinh khủng. Dưỡng thương vài hôm lành lặn, tôi xin mẹ cho miễn qua bài học này, mẹ cứng rắn không cho. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này tôi không gồng mà thả người lỏng ra, vì nhận ra càng gồng càng đau, càng thả lỏng càng dễ thở và nhẹ nhàng hơn. Tôi năn nỉ mẹ gắp tôi lên, nhưng từ trên cây mẹ vọng xuống:


-“Con trai! Vỗ hai cánh bay lên đi!”


Ban đầu tôi lắc đầu vì không làm được. Vì bị treo quá lên trên dây, chân chuyển cơn đau dữ dội, mẹ từ trên cao bảo tôi bay nhưng tôi không tày nào dồn lực vào hai cánh được. Từ trên cây, mẹ bay xuống trợn mắt, sà chiếc mỏ mổ tôi tới tấp, tôi chẳng thấy đau nữa, vì đã lịm ngất rồi.


Bài học cuối cùng của tôi là học vỗ cánh bay lên. Sau khi lịm ngất, tôi tỉnh lại, mẹ đứng im nhìn xa xa, chẳng ngó gì đến tôi. Tôi cố di chuyển cái mỏ nhỏ xíu của mình gọi: “Mẹ! Mẹ ơi!”. Mẹ quay lại rầy la tôi trong tức giận:


-“Vì sao con không vỗ cánh bay lên? Sao con không cố gắng? Con muốn bị đồng loại coi thường à?” Nói xong mẹ khóc nức nở. Tôi lồm cồm lết lại gần mẹ, rúc vào nách mẹ mà khóc.



-“Bay lên! Bay lên đi con”


Từ trên cao mẹ khuyến khích tôi. Tôi dồn hết sức đập cánh. Đôi cánh mỏi nhừ vỗ mãi bay lên được đôi chút, khoảng nửa đường thì rớt xuống tư thế tòng teng trên không. Mẹ bảo tôi:


-“Con vỗ cánh đều vào, vỗ đều mới bay được! Làm lại đi con!”


Tôi thở dốc vì quá mệt và mỏi, lần nữa gượng đập cánh, hồi sau mới lên được chút xíu. Rồi nản chí rớt xuống. Mẹ từ trên cao trừng mắt, sà xuống định mổ tôi, tôi kêu lên thất thanh: “Mẹ ơi! Tha cho con! Con xin mẹ!” rồi tôi lấy hết sức mình đập cánh thật mạnh, vậy là tôi bay một hơi tới chiếc tổ trên cành cao. Từ phía dưới mẹ lại tiếp tục bay lên trừng mắt định mổ tôi tiếp tục, tôi lượn một vòng, vỗ cánh né cuộc tấn công của mẹ. Mẹ liền bay tới nhánh cây đang cột sợi dây giữ chân tôi, dùng mỏ mổ thật mạnh vào sợi dây, dây đứt và tôi tung cánh ra bầu trời rộng lớn. Tôi hét lên không trung:


-“Mẹ ơi! Con bay được rồi! Mẹ ơi! Con bay được rồi!”.


Tôi lượn thoắt thật nhanh ra bầu trời xanh thẳm, làn gió mát rượi lần lựa quyện vào lớp lông mỏng manh của tôi. Nhìn thấy ông mặt trời đang tỏa hơi ấm, thấy các bạn chim đang bay, thấy làn mây cuốn trôi từng tảng thật lớn, và thấy dòng suối như con rắn dài vô tận dưới kia. Tôi hạnh phúc khi ngắm nhìn cuộc sống bằng chính mình, chứ không phải nhờ anh Hai hay chị Ba cõng nữa.


Mặt trời gần xuống núi, tôi hòa cùng đàn bay về tổ, họ bất ngờ khi thấy tôi biết bay, tôi đã kể cho họ nghe mọi chuyện. Vừa về tới tổ, thấy anh Hai, chị Ba đứng cạnh mẹ – đang nằm yên bất động trong chiếc tổ nhỏ xíu – khóc nức nở. Lúc nãy khi tôi vừa bay đi, mẹ vì phần mệt nhọc sau những ngày tập cho tôi, phần vì kiệt sức do chưa có gì ăn, nên nằm thiếp trong tổ. Một chú rắn lục đã lén cắn vào người mẹ, mẹ ra đi vì nọc độc đã lan khắp thân thể nhỏ xíu cách nhanh chóng. May thay khi anh Hai, chị Ba trở về, vừa kịp thấy chú rắn định nuốt xác của mẹ, anh chị đã mổ chú rắn tới tấp để giành lại mẹ, giờ đây mẹ nằm trước anh chị em tôi, bất động.


Tôi mang ơn mẹ vì những gì mẹ đã làm cho tôi. Tôi nhớ mãi điều mà mẹ nói: “Cuộc sống này không hề đơn giản như con nghĩ, không yên bình như một chú chim tàn tật nằm yên trong tổ chờ mẹ mang thức ăn về”. Vâng! Đáng ra người phải chết là tôi chứ không phải mẹ, nhưng chính mẹ đã thúc tôi biết bay, thật nhanh, thật xa, để tránh khỏi những nguy hiểm chực chờ ấy. Giờ đây, mỗi khi nhấc chân, đập cánh … tôi nhớ mẹ.


                                                                                    Little Stream