26 tháng 11, 2020

Tản mạn: HẾT...?

 Một năm phụng vụ sắp chấm hết, vòng thời gian thế mà xoay vần quá nhanh, để lại nơi tôi bao nhiêu điều suy nghĩ. Thiết nghĩ đây là cơ hội tốt để tôi nhìn lại con người mình trong hành trình đã qua, cũng là dịp để tôi đặt ra cho mình những quyết tâm trong tương lai, kèm theo đó là những ưu tư được đặt trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.

Hết một quãng đường ngắn, tôi thấy mình reo vui trước những hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho cuộc đời mình. Tôi đã đi qua hành trình tím hy vọng để đợi chờ Đấng Cứu Tinh; sau đó hân hoan mừng Ngôi Hai Thiên Chúa đến làm người và đồng hành với con người. Tôi cũng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cái màu xanh bình dị, nơi mà lòng thương xót và ơn cứu độ được biểu lộ qua cuộc sống thường hằng. Màu tím ngắt mang ý nghĩa thống hối và trở về của mùa chay, tôi thấu hiểu nỗi vui mừng của màu vàng chiến thắng trong đại lễ phục sinh. Như một lời nhắc nhở về sự bình dị của đời sống, màu xanh mộc mạc lần nữa cho tôi cảm giác bình an lạ thường, vì niềm vui phục sinh, niềm vui cứu độ đã ngấm vào những dung dị của kiếp người.






Tự hỏi hết mùa phụng vụ có phải là đã chấm hết? Một vòng của năm phụng vụ cứ lặp lại tiếp tục với những màu sắc tím – vàng – xanh – tím – vàng – xanh. Tôi không nghĩ như thế! Năm phụng vụ như những lời nhắc nhở bản thân tôi về lối sống và trưởng thành trong đời sống Ki-tô Hữu của mình. Mang phận người yếu đuối, tôi vẫn có những va vấp, thiếu sót của chính mình, nhưng tôi cũng đạt những thành quả nhất định. Cũng tựa như phía sau màu tím buồn là màu vàng và màu xanh hy vọng vậy. Đời tôi vẫn tiếp tục chứ không lặp lại như cũ, mỗi ngày mỗi mới hơn. Hành trình tiến lên không ngưng nghỉ là lời thôi thúc mà Thiên Chúa dành cho tôi cách cụ thể nhất qua những vòng năm phụng vụ này. Vì vậy, năm phụng vụ chấm hết về mặt thời gian, nhưng ý nghĩa của mùa này là vô hạn, vì Đức Ki-tô là trung tâm điểm cho những cử hành phụng vụ này, mà đời tôi thì đang bước theo Đức Ki-tô vĩnh hằng.


Hành trình năm qua với nhiều biến cố trong cuộc đời. Vui buồn lẫn lộn, thành công thất bại đan xen, nhưng nhìn kỹ lại tôi thấy tiềm tàng một sự lớn khôn khó tả. Chúa là nguyên lý duy nhất thúc đẩy sự triển nở âm thầm ấy trong con người tôi. Nhờ thế, tôi dám khẳng định rằng: “Tôi hôm nay khác hôm qua, và tôi ngày mai sẽ khác hôm nay”. Cái khác ấy là gì nếu không phải là những cố gắng biến đổi mình nên tích cực, vui tươi và bình an hơn. Cái khác ấy là gì nếu không là sống triển nở, tròn đầy và có ích hơn cho người khác. Cái khác ấy là gì nếu không phải là nỗ lực khắc phục những khuyết điểm, dẫu biết rằng đó không chỉ là chuyện một ngày một bữa, mà của cả đời người.


Vị bác sĩ sau những ca phẫu thuật thêm tự tin vào tay nghề của mình, nhờ đó khả năng cứu sống bệnh nhân tăng cao hơn. Một giáo viên sau nhiều năm kinh nghiệm có thể nắm chắc khả thể dạy dỗ học sinh thành công trong nhiều tình huống khác nhau. Bác nông dân sau những năm quần quật cũng rút ra cho mình năm tới phải làm như thế nào để đảm bảo cái ăn cái mặc cho gia đình. Anh công nhân – viên chức cũng nhận ra năm nay mình muốn làm ở vị trí nào, tay nghề tăng lên ra sao và có thể ứng cử vào một vị trí chính chuyên với mức lương hậu hĩnh hơn. Tôi cũng thế, sau hành trình lượng giá, nhìn nhận bản thân, tôi cũng vạch ra hướng đi chủ đạo mà mình sẽ bước, với kinh nghiệm đã trải qua, với nỗ lực thích hợp và nhất là ơn Chúa, thì chắc hẳn mọi chuyện sẽ tốt hơn, và đời sống sẽ triển nở hơn.


Tuy vậy quyết định cho bản thân cũng phải đắn đo trước những bất trắc của cuộc sống, vì làm sao tránh khỏi những điều bất ngờ luôn xảy đến. Đại dịch Covid 19 đã ập tới và làm thay đổi toàn diện của mọi quốc gia giàu cũng như nghèo trên thế giới. Lần theo đó là những ảnh hưởng không ngờ của thiên tai, hạn hán, lũ lụt đã dẫn theo bao nhiêu hệ lụy cho cuộc sống con người thời đại mới. Tôi đang sống trong chính bối cảnh như thế, không thể thay đổi ngoại cảnh được. Vấn đề là ở chỗ tôi phải thay đổi và ứng phó với những thay đổi ấy ra sao mà thôi. Như thế, quyết định cho bản thân cần dung hòa với chính bối cảnh hiện tại theo lối cân nhắc đầy khôn ngoan và can đảm. Xét về bình diện đức tin, thì Thiên Chúa luôn đồng hành bên con người trong mọi hoàn cảnh. Xét về bình diện cuộc sống, thì con người có quyền hy vọng ngày mai tốt hơn. Thế nên, những bất trắc như dấu hiệu, cảnh báo, thách thức và cũng là cơ hội mới để con người thăng tiến chính mình.


Không biết trong năm phụng vụ 2020-2021 này sẽ có những gì xảy đến, nhưng có một điều tôi biết rõ là lòng thương xót và sự quan phòng mà Thiên Chúa không ngừng ưu ái ban cho nhân loại và chính tôi. Nên dẫu gì thì dẫu, con người vẫn thuộc về Thiên Chúa vì chúng ta là thụ tạo yêu dấu của Người. Năm phụng vụ cũ đã qua đi, với những bất trắc của thời đại, nhưng không phải là dấu chấm hết, mà vẫn tiếp tục hành trình làm người, làm con Thiên Chúa. Nhìn những biến cố quanh mình trên hành trình ấy, thì có gì cản ngăn tôi tiến tới nhà Cha trên trời trong thời đại mới này.


Lạy Chúa, một năm phụng vụ đã qua, một năm phụng vụ mới lại đến, cùng với những ưu tư, vui buồn của kiếp nhân sinh. Nhưng chúng con tin rằng dù cho cuộc sống ra sao thì chúng con vẫn sống trong bàn tay quan phòng của Người. Xin Chúa tiếp thêm nghị lực, sức mạnh và đức tin để chúng con vững bước trên hành trình mới này. Amen.


                                                                                    Little Stream

25 tháng 11, 2020

Truyện ngắn: "THÈM" NHÀ THỜ

 

  • “Thầy ơi! Suốt cả tháng qua, con “thèm” nhà thờ quá!”

Đó là câu nói của một phụ nữ đã bộc bạch cùng tôi trong chuyến tông đồ vừa qua. Xuất thân là con nhà nông, chân lấm tay bùn đã quen. Sau đợt mưa lũ và đại dịch Covid 19, công việc ở quê khó khăn hơn, đầu ra đầu vào đều khó cả. Trong khi còn người chồng đang bị bệnh ở nhà, với mấy đứa con đang tuổi ăn tuổi học, chị không cầm lòng đặng, đành khăn gói lên Sài Gòn kiếm việc. Công việc hiện tại của chị là giúp việc nhà cho một gia đình thuộc chung cư ở quận 2, với lượng việc vừa phải với sức khỏe của chị, thêm người chủ hiền lành, tốt bụng, nên chị đã gửi về gia đình tháng lương đầu tiên của mình. Niềm vui thể hiện trên khuôn mặt chị vì số tiền lương này còn nhiều hơn số tiền mà anh chị quần quật làm ở quê trong mấy tháng. Cầm tiền ra bưu điện gửi về nhà cho chồng với các con, chị rơi nước mắt.




Vốn là một người phụ nữ đạo đức, hết lòng yêu mến và tin tưởng vào Thiên Chúa. Hồi ở quê, nhà gần nhà thờ nên chị đi lễ mỗi ngày. Dù công việc đồng nương lắm bận vất vả, nhưng chị luôn dành buổi chiều để đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Chị tâm sự rằng đây là thói quen mà ngay từ nhỏ ba mẹ đã làm, rồi ông bà dắt chị cùng tới nhà thờ. Dần dà từ thói quen, lớn lên có hiểu biết, được học giáo lý, có gia đình và bương chải với khó khăn của cuộc sống, chị chuyển từ thói quen sang niềm tin cách mạnh mẽ vô cùng. Chị tin Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời mình, dù lúc vui hay buồn, lúc khó hay dễ, mọi sự phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Chính vì thế, chị cũng tin cuộc rời quê lần này lên Sài Gòn tìm việc cũng nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.


  • “Thầy biết không! Mấy tháng dịch Covid 19 tràn về lần thứ hai, phải dự Thánh Lễ trực tuyến, con dự lễ lần nào cũng khóc. Khao khát được rước Mình Thánh Chúa mà chỉ có thể lãnh nhận cách thiêng liêng thôi thầy ơi! Rồi đợt dịch tạm lắng, con phải rời quê lên Sài Gòn, một lần nữa lạ nước lạ cái, muốn tìm nhà thờ dự lễ mà tận hôm nay mới tìm được. Con mừng quá!”.

Tâm sự về nỗi khao khát đến với Chúa của mình, chị tâm sự:

  • “Đối với con, Chúa là trên hết! Ngay cả đời có khó nghèo, lận đận cách mấy, nhưng con tin Chúa vẫn thương và đồng hành với con. Có cha mẹ nào mà bỏ con cái mình phải không thầy? Con chắc Chúa thấy hết những khốn đốn của gia đình và cuộc đời con, và con cũng tin Chúa có cách quan phòng riêng của Người. Chẳng có gì phải tuyệt vọng cả”.

Tâm tư của chị còn tuyệt vời hơn cả khi thốt lên:

  • “Thầy biết không! Bắt con xa nhà, xa chồng, xa con, từ từ thì con cũng chịu được. Nhưng không đi nhà thờ được thì buồn chán lắm thầy ơi!”

Tôi phân vân hỏi vì sao, chẳng lẽ chị đặt gia đình vào một vị trí thấp bé, chị giải thích:

  • “Đi làm mướn, như thầy biết đó, chẳng phải hạnh phúc, trọn vẹn như suy nghĩ. Nhiều khi nhớ nhà, nghĩ cảnh chồng bệnh, nghĩ con cái nheo nhóc con rớt nước mắt. Rồi mỗi lúc con tới nhà thờ, con tâm sự với Chúa mọi sự. Người nghe con và tiếp tục tăng sức để con trọn vẹn vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình. Vì thế, giờ khi lên Sài Gòn, con thèm tới nhà thờ, để nói với Chúa nỗi nhớ chồng, nhớ con và nỗi lo lắng của bản thân. Dù xa nhà nhưng thực ra vẫn ở cạnh chồng và con trong lời cầu nguyện.”

Kể về hành trình tìm được nhà thờ để đi lễ, chị kể trong niềm vui không thể tả được:


  • “Buổi chiều, sau khi hoàn tất hết việc nhà, con trình bày với cô chủ về niềm tin và khao khát đi nhà thờ. Cô chủ là người ngoại đạo, nhưng cô cho phép con đi tìm nhà thờ đi lễ. Con dành cả tháng đầu lặn lội hết chỗ này tới chỗ khác để hỏi người ta gần đây có nhà thờ nào không? Thế là theo lời chỉ dẫn, con bắt xe grab quanh quẩn và tìm được nhà thờ này. Bữa nay là Thánh Lễ đầu tiên của con ở đất Sài Gòn này. Con vui quá!”.

Chị vừa dứt tiếng, chuông thứ hai reo lên. Chị ngó đồng hồ, còn hai mươi phút nữa mới tới giờ lễ, chị từ giã tôi để vào nhà thờ cầu nguyện. Hôm nay sẽ là Thánh Lễ xa quê đầu tiên của chị ở đất Sài Gòn, hôm nay cũng có nhiều tâm tình chị sẽ nói với Chúa về gia đình, bản thân mình. Hôm nay chị cũng có được hạnh phúc lớn lao vì sẽ được ngồi trong bầu không khí ấm cúng của cộng đoàn dân Chúa và tham dự Thánh Lễ. Chị muốn gặp cha xứ xưng tội để xứng đáng rước Chúa vào lòng mình. Chị xúc động quá mà hai mắt đỏ hoe trong suốt cuộc trò chuyện. Nỗi “thèm”…  nhà thờ của Chị hôm nay đã được đáp ứng rồi.


  • “Thôi con lên nhà thờ nha thầy! Chào thầy nhé!”

Dáng người phụ nữ nhỏ nhắn, tóc cột gọn, bước chân reo vui với tâm hồn sốt sắng. Nhìn chị bước lên bậc thang dẫn vào nhà thờ, mà tôi nhận thấy qua cuộc nói chuyện, chị đã để lại trong tôi điều gì đó…

Little Stream

23 tháng 11, 2020

Tản mạn: TỬ ĐẠO GIỮA ĐỜI THƯỜNG

(Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam)


Ý tưởng tử đạo giữa đời thường được gợi lên trong tôi qua ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam cách sâu sắc. Ý tưởng ấy không xa xôi vì đó là một điều thực tế, và cũng không quá khó để thực hiện. Hai hành động cụ thể mà tôi liên tưởng tới là bớt đi những quan tâm thái quá cho cuộc sống và kiên nhẫn với tha nhân xung quanh mình.


Tử đạo đã từng được hiểu là những cái chết về bình diện thể lý như các vị tử đạo đã trải qua. Các ngài đã kinh qua những đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tinh thần để một lòng minh chứng niềm tin vào Thiên Chúa, đến lúc đau đớn không còn giá trị gì trên thể xác, cũng là lúc được diện kiến Thiên Chúa mà các ngài tin tưởng. Thực vậy, ngẫm tới những cái chết anh hùng của đấng bậc tiền bối, tôi phải nể phục các ngài vạn lần. Những mũi dao đâm thủng da thịt, những ngọn lửa đã thiêu cháy bao nhiêu sinh mạng, đó là còn chưa kể tới những trò hành hạ dã man khác mà những kẻ bách đạo đã bày ra. Tự hỏi làm sao các vị có được sức mạnh để vượt qua? Động lực đầu tiên là chính Thiên Chúa. Nếu không vì niềm tin mạnh mẽ và lòng can đảm Thiên Chúa đã trao ban, chắc hẳn các vị đã không dám chịu những thách đố dã man như thế. Động lực tiếp theo là chính nỗ lực phi thường nơi những con người bé nhỏ. Tôi tin rằng các vị cũng biết đau, biết xót thương cho những cảnh chia ly, nhưng trên hết các vị tin vào lời Chúa Giê-su đã nói: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (x. Mt 10,28).


Trong cuộc sống hiện tại, tôi tự hỏi mình có thể minh chứng niềm tin của mình vào Thiên Chúa? Có khả năng tử đạo như các tiền bối đi trước hay không? Có lẽ cơ hội đổ máu như các vị ngày xưa không còn, nhưng thay vào đó cách thức tử đạo trong thời đại mới là điều hoàn toàn có thể. Cuộc sống ngày càng phát triển với những đòi hỏi của nó, khiến con người dễ bị xoay vần theo tiện nghi vật chất. Đồng ý rằng: “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” hay “muốn ăn phải lăn vào bếp…”, rõ ràng nhu cầu đời sống con người luôn cần được đề cao trong mọi thời đại. Hơn nữa, khi kỹ thuật công nghệ hiện đại lên ngôi, dần nâng ý thức con người từ “ăn no mặc ấm” sang “ăn ngon mặc đẹp”, mà muốn được điều này chỉ còn cách siêng năng “cày bừa”, chứ “không dưng ai dễ mang phần đến cho”. Vì thế, đôi khi người ta quên bẵng đi cả những giây phút nghỉ ngơi, dành cho nhau; thậm chí vì lo lắng cho cuộc sống mà quên cả niềm tin vào Thiên Chúa nữa.


Vì thế, cần phải nhớ lại lời của Đức Giê-su khi nhắc nhở về thái độ lo lắng ở đời này: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6, 34)”. Thêm vào đó, Người còn động viên tinh thần con người bằng cách chỉ cho thấy sự quan phòng của Thiên Chúa: “… ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” (x. Mt 10, 30). Nói như vậy là vì tôi nghĩ rằng bớt đi nỗi lo lắng thái quá cho cuộc sống này cũng là một cách thức tử đạo. Bớt đi lo lắng khác xa với thái độ vô lo, thiếu quan tâm tới cuộc sống. Bớt lo lắng là thái độ cần quan tâm tới cuộc sống này đúng mức, vì mọi sự trong cuộc sống này chỉ là phương tiện đạt tới Thiên Chúa mà thôi (x. Linh Thao 23). Chính vì vậy mà thái độ chăm sóc đời sống tâm linh và đời sống vật chất cần sóng đôi nơi mỗi Ki-tô Hữu. Lo vẫn là lo, nhưng lo lắng và ứng xử đúng mức, mưu ích cho tha nhân và cả bản thân mình, cũng xứng đáng là một cách tử đạo lắm chứ!


Tôi cũng thích suy nghĩ về những sự chịu đựng, kiên nhẫn với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Con người ai cũng có những yếu đuối riêng mình, và khi sống cùng nhau nghĩa là họ chấp nhận những điểm mạnh cũng như yếu đuối của anh chị em xung quanh. Sự chịu đựng ấy đôi lúc không dễ, vì nó đòi hỏi cả một thái độ khoan dung, vị tha và mau quên đi những lỗi lầm của người khác. “Thế giới này không ai là một hòn đảo, vườn hoa không có loài hoa lạc loài”, lời một bài hát thiếu nhi mà thuở nhỏ tôi được học và tôi vẫn nhớ. Như thế, để có được một đời sống ấm êm, hạnh phúc thì những chịu đựng hy sinh ấy đáng giá biết bao. Nếu hy sinh, chịu đựng và tha thứ cho tha nhân với thái độ hoàn toàn tích cực, thì cuộc sống này luôn tươi sáng. Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã nêu gương kiên nhẫn chịu đựng ấy cách rất rõ nét. Suốt thời gian trong đan viện, bao nhiêu là những giày vò, khó khăn đến với ngài. Sự kiên nhẫn của thánh nhân không là một sự khó chịu, oằn mình gánh vác theo kiểu ép buộc, mà đó là thái độ cam tâm, tình nguyện với tự do bản thân mình, để gánh vác lấy những hiểu lầm, đố kỵ và thách đố trong niềm vui. Vì thánh nhân tin rằng những “tử đạo” nhỏ của mình đẹp lòng Thiên Chúa, đồng thời qua đó mà thánh hóa tha nhân.


Tôi tin Thiên Chúa cũng hài lòng với những cuộc “tử đạo” của chúng ta ngày hôm nay không kém gì so với các vị tiền bối ngày xưa. Ngài sẽ vui hơn khi thấy người bố, người mẹ hy sinh vài giờ để bỏ chiếc điện thoại hay máy tính xuống, và ngồi ăn cơm với con cái, hỏi thăm trò chuyện với chúng chuyện ở lớp học. Ngài vui hơn khi thấy giữa bộn bề lo toan, tôi dám bỏ bớt vài giờ kiếm tiền để chạy tới nhà thờ dự thánh lễ Chúa Nhật, hoặc đưa con cái đi học giáo lý. Ngài vui hơn khi thấy tôi tranh thủ đi làm về tạt ngang đài Đức Mẹ hay nhà Chầu để thăm viếng Ngài đôi chút. Thiên Chúa cũng vui hơn khi thấy con người biết cảm thông, kiên nhẫn với nhau hơn. Bản thân tôi không dám đem ra so sánh những cuộc tử đạo xưa với ngày nay, nhưng tôi xác tín rằng giá trị chắc hẳn không bao giờ giảm bớt dù là tử đạo ở bất cứ hình thức nào.


Cuộc sống thường ngày bộn bề vậy đó, nhưng cũng đầy những cơ hội để tôi tử đạo, minh chứng niềm tin vào Thiên Chúa của mình. Các vị tiền bối không bị cuốn hút bởi những chiêu dụ ngọt ngào mà bỏ đạo, tôi cũng không tập trung vào những lời mời gọi quá hấp dẫn của đồng tiền, công việc kéo tôi xa Chúa. Các thánh tử đạo đã không thốt lên lời chối bỏ Thiên Chúa, thậm chí còn tuyên xưng đức tin cách dõng dạc. Cũng thế, tôi được mời gọi làm chứng cho Thiên Chúa qua đời sống hàng ngày của mình cách mạnh mẽ dù phải đón nhận bất cứ giá nào. Đồng thời, tôi cũng được mời gọi sống kiên nhẫn, vị tha với tha nhân, vì tôi biết rằng họ cũng đang kiên nhẫn và thông cảm với và cho tôi.


Little Stream

20 tháng 11, 2020

Tản mạn: NỖI KHÓ NHỌC NGƯỜI LÁI ĐÒ

(Tri ân những người Thầy - Cô tinh thần 

và những vị hoạt động trong lĩnh vực giáo dục)


Ông lái đò vẫn ung dung bẻ lái cho chiếc đò êm trôi trên mặt nước, nhìn vào ai cũng nghĩ công việc ấy thư thái và nhàn hạ quá sức. Nhưng không! Để chiếc đò trôi đi cách đúng hướng và nhanh chóng tới bến như vậy, không hề dễ chút nào cả.


Công việc ấy là cả một sứ mạng hẳn hoi. Ông phải đảm bảo việc đón khách ở hai đầu bến, đưa đến nơi mà họ muốn, trong vai trò là cầu nối trung gian. Như thế, ông phải trung thành với sứ mạng của mình không phải một ngày một bữa, mà suốt cả đời mình cho tới lúc không đảm nhận việc này được nữa, dù trời nắng hay trời mưa, lúc khỏe mạnh hay khi bệnh tật. Điều này đòi hỏi nơi ông một sự kiên trì và lòng yêu nghề khủng khiếp. Gắn bó keo sơn với bao nhiêu mưa nắng cuộc đời, ông thực thi trọn vẹn sứ mạng của mình.




Ông là một người âm thầm nhỏ bé hết sức. Dẫu biết vị trí lái của ông là quan trọng vô ngần, vì thế dân gian mới có câu: “mũi dại lái chịu đòn”, nhưng khi bước lên đò có mấy vị khách để ý tới vị trí của ông đang đứng. Trong tâm khảm của họ chỉ có cái bến phía trước, có người họ yêu mến, có bữa cơm nhà đang đợi, có hạnh phúc riêng, có thành công chờ đón; còn người lái đò chỉ thui thủi sau những chuyến đò đưa. Ông lặng nằm gác chân nghỉ ngơi đôi chút, mở nắm cơm vắt ăn qua loa rồi tiếp tục chèo đưa. Sự cô đơn và âm thầm nơi người lái đò là một điều cao quý. Chỉ cần khách đi đò hạnh phúc là ông hạnh phúc, khách tới bến đỗ là ông an tâm, khách còn gọi nhờ ông đưa đò là ông biết mình còn hữu ích cho cuộc sống này.


Thêm nữa, ông phải có đôi mắt tinh tường, trí phán đoán nhanh nhạy, chính xác. Chuyến đò chỉ có một đường qua lại thôi, nhưng lái không chuyên thì chuyến đò cứ xoay vòng mà chẳng tới bến. Đó là còn chưa kể tới những con xoáy ngầm chực chờ hút con đò xuống đáy sông. Thế nên, với kiến thức và kinh nghiệm chuyên nghề, ông lái biết mùa nào nước ra sao, xoáy tập trung chỗ nào và đi như thế nào thì an toàn cho khách trên đò. Như vậy, đòi hỏi đặt ra cho một người lái đò thật khó, vừa chuyên nghề, vừa tinh tường và nhanh nhạy. Khi không còn đủ những tiêu chuẩn như thế, ông tự hiểu mình không còn lái đò được nữa.




Đã vậy mà đôi lúc ông còn chịu lời ra tiếng vào của khách. Trách sao được vì phận dãi dầu mưa nắng cả ngày, cái giới hạn con người làm sao không xảy ra với ông được. Những bực mình, không vui hay lắm lúc quát tháo là điều không tránh khỏi. Nhưng chắc chắn một điều là đạo đức trong nghề nghiệp cho thấy ông luôn một lòng muốn làm tròn trách nhiệm của người đưa đò. Không phải tiếng nóng giận, quát tháo ấy là vì tiền bạc, hay vì cuộc sống riêng mình; nhưng bởi đôi lúc sợ những đùa giỡn thái quá của ai đó trên chuyến đò sẽ gây nguy hiểm cho những người khác; sợ những hành vi thiếu ý thức trong phút chốc để lại hậu quả cho cả cuộc đời. Ông ưu tư và lo lắng nhiều. Thôi thì đành lẳng lặng mà chịu lời ra tiếng vào, nhưng cứ phải sống đúng cái nghĩa làm người đã là mừng.


Chưa hết, có ai từng lặng ngẫm về thân phận của người lái đò. Hình như ông đang hy sinh. Đúng rồi! Ông hy sinh cuộc đời riêng tư của mình cho ích chung của những chuyến đò. Hết chuyến này rồi sang chuyến khác. Hết đời khách này đến đời khách khác. Tới bến thì khách nào cũng vui mừng hớn hở, còn ông ngồi nhìn tóc đã điểm bạc rụng xuống và đếm xem mình còn đưa được bao nhiêu chuyến đò nữa trong phần đời còn lại. Đời phục vụ của ông không chớp nhoáng như con thiêu thân sa vào ánh sáng mà chết, nhưng nỗ lực cống hiến lâu dài cho cả một sự nghiệp đưa đò lớn lao.


Ông lái đò ơi! Cám ơn vì những lao tác miệt mài của ông. Đưa được bao nhiêu chuyến đò, bao nhiêu người đạt hạnh phúc riêng, còn ông vẫn ung dung, tự tại với đóng góp vào ích chung của mình. Cám ơn ông đã đưa tôi tới bến bờ nhỏ, từ bến nhỏ này sang bến nhỏ khác, tôi phải mang ơn bao nhiêu ông lái đò như thế. Cám ơn ông nhiều lắm ông lái đò ơi!


                                                                                Little Stream

Photo 2: Moon

14 tháng 11, 2020

Truyện ngắn: NGÀY MAI NÓ VỀ

 NGHE ĐỌC TRUYỆN TẠI ĐÂY

  1. Nằm trên giường, chị cứ lăn qua lăn lại, chẳng tày nào chợp mắt được. Nỗi lo lắng đè nặng trong tâm hồn, buột miệng chị thốt lên: “Mai nó về!”.

Nó là đứa con trai duy nhất của chị, tên Tuấn. Tuấn là món quà duy nhất mà anh, trước khi lìa đời, để lại cho chị. Chị thương con vô kể vì mỗi lần nhìn nó là chị nhớ tới chồng. Càng lớn Tuấn càng giống y ba nó ngày xưa. Thắm thoát anh ra đi đã hai mươi năm, thằng Tuấn năm nay hai mươi tuổi. Nhưng trong hai mươi năm đó, chỉ có mười lăm năm ở nhà với chị, còn suốt năm năm nay nó đi bụi đời với lũ bạn, chị khuyên răn, dạy bảo, van xin, thậm chí nặng lời cỡ nào nó cũng không nghe.

Mỗi lần Tuấn về là mỗi lần đau khổ và dằn vặt hoành hành trong tâm can người mẹ. Nói là về chứ thực nó ghé vài tiếng, có khi chưa đầy mười lăm phút, rồi đi bụi tiếp. Ghé ngang để biết chị sống hay chết. Nhiều lúc chị không cầm được mà chửi thành tiếng, nó trả lời lại cách ngang ngược rồi bỏ đi nước một. Muốn chạy theo níu con lại mà đôi chân chị không bước đi được nữa, lời nó nói làm chị suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác: “Đ…M…! Biết vậy tui chết quách cho rồi, về làm gì!”.

 

2. Anh ra đi vì căn bệnh ung thư quái ác. Tuấn là kết quả cố gắng của anh trong những giây phút sức khỏe anh suy sụp vô cùng. Hồi mới cưới, gia đình anh chị cũng khá giả, nhưng từ độ anh phát hiện bị bệnh, gia đình dần rơi vào túng thiếu. Anh thương chị nhưng trước bệnh tình như vậy thì biết làm sao. Nhiều lúc anh muốn ngưng điều trị để ở nhà chờ chết, nhưng nghĩ mình ra đi quá sớm bỏ chị lại một mình thì cũng tội. Điều trị đồng nghĩa với chấp nhận cái nghèo đeo bám, nhưng càng điều trị thì sức khỏe của anh càng xuống. Sau những liều thuốc vào người, tóc rụng dần, da vẻ xanh xao và yếu ớt hẳn trông thấy rõ. Tuấn ra đời được vài hôm thì anh mất, chị mới sinh con nên không đứng dậy nổi lo đám cho anh, bà con xóm giềng chung tay giúp. Rốt cuộc hậu sự cho anh cũng xong.

Còn liếp rau sau nhà, chị cắt đem ra chợ sớm, bán được ngày nào nuôi con ngày đó. Cuộc sống không đến nỗi quá cơ cực, xem ra ít rau trồng được đủ lo miếng ăn cái mặc cho hai mẹ con. Nhưng lúc bệnh tật, trái gió trở trời, thì hơi túng thiếu; cũng may những lúc như thế có bà con chung tay hỗ trợ. Tuấn dần lớn, chị cho nó đi học. Mặc cảm đứa trẻ không cha và nhà nghèo trong nó quá lớn, mà lũ bạn vô tình cứ trêu chọc mãi, nó ráng tới bảy thì nghỉ học. Bước ra đời ở cái tuổi non dại, nó nhanh chóng bị lũ bạn xấu rủ rê, thế là nhập bọn với đám bụi đời trong xóm.

Mới đầu chị hay thì đi kiếm hết chỗ này tới chỗ nọ. Có hôm suýt bị mấy đứa bụi đời đánh, vì chúng nghĩ chị là công an chìm theo dõi cả bọn, hên nhờ thằng Tuấn ra mặt kịp mà chị thoát nạn. Chị kêu nó về, nó nhất quyết không về. Nó tự hỏi về để làm gì? Có gì để nuôi sống đâu? Có mỗi mái nhà lụp xụp với bà mẹ già. Đi bụi dù bấp bênh nhưng đảm bảo cái ăn, cái chơi và thậm chí là có trò tiêu khiển thì không thiếu. Hoặc ít ra khi đi với lũ bạn, nó có chút hy vọng nơi cuộc sống này, còn trở về với chị thì chán quá! Thế là nó không nghe lời chị.

Từ quê, lũ bạn rủ nhau đi tới thành phố, tham gia vào nhóm đàn anh đàn chị ở Sài Gòn. Tuổi trẻ hăng máu của Tuấn với lũ bạn, được mấy anh chị “quý mến” và “chăm sóc” đặc biệt, chẳng mấy chốc thành giang hồ thứ thiệt. Nó bắt đầu kiếm ra đồng tiền, dẫu là tiền bất chính từ những vụ làm ăn phi pháp, nhưng nó vui. Có lần về thăm mẹ, Tuấn đưa cho chị chiếc điện thoại, rồi dặn: “Bà giữ điện thoại, chừng nào tui về tui báo!”. Nói xong nó bỏ đi, chị nhìn theo mắt rơm rớm mà chẳng nói được tiếng nào.




3. Hồi chiều, Tuấn mới điện thoại báo với chị mai nó về. Chị vẫn thương con, nhưng chị cũng sợ. Cái máu giang hồ thể hiện trong cả cách nói chuyện của nó, chị mở lời câu nào nó đáp ngang câu đó, cuộc nói chuyện của hai mẹ con chưa khi nào tới mười câu, rồi quăng lại cho chị ít tiền, ít quần áo mà ra đi. Chị sợ lần này về cũng thế thôi, chắc không có gì tốt hơn. Tiền và quần áo nó mua cho, chị nào dám dùng, vì chị biết đồ ấy được mua bằng những đồng tiền bất chính. Lần nào Tuấn về, chị cũng kêu nó lấy tiền trả lại người ta, lấy quần áo cho người nghèo, nó chẳng quan tâm mà cứ để tiền và quần áo lại mà đi. Chị cứ để tiền và quần áo như thế, tháng này qua tháng nọ, năm này tới năm kia.

Nhưng trong lần điện thoại này, chị nghe giọng nó có chút gì đó hơi khác. Có thể là chị nhầm, nhưng linh cảm của một người mẹ hầu như khó sai lầm. Mọi lần nó gọi về, giọng nó mạnh bạo, ngắt tiếng, gằn giọng nghe ghê lắm. Còn lần này giọng nó dịu lại chút đỉnh. Chị thấy lạ quá!

 

4. Sáng hôm sau, chị tranh thủ cắt rau sớm như thường lệ, ra chợ gửi bạn hàng bên cạnh bán giùm. Chị đi mua ít miếng đồ ăn về nấu cho nó ăn. Lúi húi nấu cơm, xong chị dọn ra bàn để sẵn. Chị chỉ để mỗi một cái chén và một đôi đũa, đồ ăn thì bày ra đẹp mắt, rồi chị ngồi lên bộ ván dòm ra cửa.

Gần mười một giờ, chị thấy dáng một thanh niên từ xa xa bước tới, đeo kính mát, tay cần áo khoát vắt ngược ra sau lưng, tướng đi dang rộng khá bụi bặm, đang đi vào nhà. Tới trước cửa, người thanh niên tháo kính mát ra, đứng yên nhìn chị đang ngồi trên ván. Như những lần trước, chị chẳng nói tiếng nào. Tuấn đi thẳng vô nhà để áo khoác lên chỗ ván cạnh chị, đặt chiếc kính mát kế bên. Chị kêu:

-“Cơm đằng bàn, lại ăn rồi hẳn đi!”.

Nó ra hè khoát nước rửa mặt, rửa tay. Chị nhìn theo từng bước đi và hành động của Tuấn, lòng thấy mừng vì nó vẫn nhớ cái lu nước để chỗ nào. Tuấn đi thẳng lại bàn với khuôn mặt lạnh ngắt, mắt nhìn mâm cơm với da heo kho quẹt, canh khổ qua dồn thịt vốn là những món nó thích, và lâu rồi nó chưa được ăn lại. Thấy có một cái chén với một chiếc đũa, nó đứng lên xuống bếp lấy thêm một chén và một đôi đũa nữa, đặt lên bàn, kéo ghế, nhìn chị rồi nói:

-“Má lại ăn cơm với tui!”.

Hiếm lắm mới có chuyện Tuấn nói chuyện lịch sự với chị như vậy. Đã năm năm từ ngày nó đi bụi, những câu nói cửa miệng của nó luôn là “Đ…M…!”, vậy mà hôm nay nó mời chị. Chị không chần chừ mà lại ngồi xuống bới cơm cho cả hai, gắp da heo cho vào chén của Tuấn, lấy muỗng khứa miếng khổ qua nhồi thịt để vô chén nó, rồi nói: “Ăn đi con!”. Tuấn và cơm ăn một mạch.

Chị không hỏi câu nào, chỉ quan sát. Dạo này Tuấn ốm xuống nhiều, xương hai gò má nhô cao, đôi mắt quầng đen như thiếu ngủ. Ngó xuống khu vực cổ áo, chị thấy vết thương lấp ló trong lớp áo thun nửa kín nửa hở, chị muốn vạch áo để xem nhưng không dám vì sợ nó bỏ đi. Nhìn xuống hai bàn tay, thấy gân và xương nhô ra rất rõ. Vẫn còn những vết thương nhỏ chi chít như giăng lưới từ phía trên cổ tay xuống mu bàn tay, có vết gần lành, có vết mới. Chị không khỏi xót xa, mà không dám mở lời hỏi chuyện. Tranh đấu tư tưởng hồi lâu, không nén được nữa:

-“Sao cấp này con ốm quá!”.
Tuấn nhìn chị bằng ánh mắt lạnh lùng, rồi cúi xuống tiếp tục và cơm vào miệng. Không trả lời chị.
-“Con có khỏe không Tuấn?”
Nó vẫn cúi gầm mặt ăn cơm, không trả lời. Chị tỏ rõ vẻ lo lắng, khuôn mặt già hơn rất nhiều so với cái tuổi năm mươi của chị.
-“Tuấn! Nói gì với má đi con!”. Nước mắt chị chảy ra như những giọt mưa giữa cái hạn hán trong lòng Tuấn. Tuấn dừng ăn, mắt ngó chị đăm đăm, tay nắm đôi đũa chặt lại, răng nghiến ken két. Chị sợ quá, định đứng lên chạy vào bếp vì nghĩ rằng nó sắp đập đồ hay chửi mắng chị. Vừa nhớm người, Tuấn nắm tay chị, tim chị đập thình thịch. Nước mắt Tuấn tuôn ra, nó khóc, nó đang khóc, và nó rống lên từng tiếng. Dẹp qua nỗi sợ, chị chạy lạy ôm đầu nó sát vào lòng, cằm chị đặt lên trên, nước mắt hai mẹ con thi nhau rơi xuống, chị hỏi:-“Chuyện gì vậy Tuấn, nói má nghe! Ngoan, nói má nghe.”
Ngăn được cơn xúc động, nó nói với chị:
-“Từ rày con ở nhà với má! Không đi bụi đời nữa!”.

Dứt tiếng nó ôm chị thật chặt rồi khóc như một đứa con nít bị té đau được mẹ dỗ dành. Trong tiếng khóc, nó nấc lên: “Má ơi! Má!” liên hồi. Chị không hỏi nguyên do, chỉ ôm nó rồi khóc. Cái ôm năm năm nay chị mong mà không được, cái ôm yêu thương như hồi nó còn ở nhà với chị, cái ôm thay cho nỗi sợ hãi, dồn nén mà lâu nay chị chịu đựng, một sự chịu đựng khủng khiếp đối với người mẹ đau khổ.

 

5. Chừng hơn nửa năm sau, Tuấn cũng ra đi theo ba nó. Nó trở về nhà khi đã bị vướng căn bệnh thế kỷ, còn lũ bạn “chí cốt” thì đã bỏ rơi nó. Trước khi quyết định quay về nhà, nó lay lất hết nơi này đến nơi khác, bị người ta khinh khi xua đuổi. Trong phút ấy, nó nhớ tới chị, người mẹ hiền, đang chờ đợi nó. Nó hiểu ra cái hạnh phúc mà lâu nay nó tìm kiếm và hưởng thụ chỉ là tạm bợ, vô nghĩa và chóng vánh, chỉ một chớp mắt là mất đi tất cả. Trong khi mẹ đang chờ nó về từng phút giây, dù nó có chửi mắng, đối xử tàn tệ với chị đến mức nào, thì tình mẹ vẫn không thay đổi.

Mấy tháng về sống với chị, nó hạnh quá vô cùng. Hàng xóm xì xào vì căn bệnh nó đang mang do ăn chơi, nhưng chị vẫn yêu thương là chăm sóc cho Tuấn tận tình. Tranh thủ lúc nó còn đi đứng khỏe mạnh, chị kêu nó đem hết số tiền mà lâu nay nó đem về trả lại những ai nó đã cướp, xin lỗi những gia đình mà nó từng kiếm chuyện hoặc gây ra hậu quả tồi tệ. Mặc cho người ta có tha thứ hay không, nhưng nó vẫn xin lỗi, nhưng thay vì lần trước đi với lũ bạn bụi đời gây bất hòa, thì lần này nó đi với chị để giải hòa. Số quần áo nó đem về, chị cùng nó đem tới nhà thờ xin cha phân phát cho bà con nghèo trong họ đạo. Nó cũng xin được rửa tội, lãnh nhận các Bí Tích, nhất là bí tích giải tội. Nó xưng thú tất cả tội lỗi suốt cuộc đời, nhất là năm năm tung hoành tội lỗi vừa qua.

Vài tháng cuối Tuấn gầy nhom, xuống sức chỉ nằm chứ không đi được nữa. Chị chăm sóc cho nó hết mình, rồi xin cha tới đem Mình Thánh Chúa và giải tội thường xuyên cho nó. Tuấn ra đi trong bình an thanh thản, đau đớn của bệnh tật được bù lại bằng tình thương Thiên Chúa và tình thương của người mẹ. Trước khi nhắm mắt, Tuấn nắm tay chị, hổn hển vài tiếng: “Má ơi! Con về rồi!”.


                                                                                Little Stream

06 tháng 11, 2020

Truyện ngắn: CANH RAU ĐẮNG

 NGHE ĐỌC TRUYỆN TẠI ĐÂY

  1. Ngó vào gian hàng rau xanh, Quỳnh liếc ngang rồi lại ngó dọc, cố tìm xem có mớ rau đắng nào được trưng bày ra hay không. Vừa tìm vừa chậc lưỡi: “Trời! Sao ở cái đất Mỹ này cái gì cũng có, mà sao có vài cọng rau đắng lại không có. Buồn thế!”.

Canh rau đắng là món yêu thích của Quỳnh, vì hương vị của nó nhắc cô nhớ về má, nhớ hương vị quê nhà. Hồi ở Việt Nam, lúc má còn sống, bà hay nấu canh rau đắng cho cô ăn. Nồi canh rau thuở ấy má nấu đơn giản lắm. Phi ít tỏi thật thơm, cho nước vừa đủ ăn, đợi nước sôi rồi cho rau vào, nêm nếm chút ít thì ăn ngay. Đặc trưng loài rau này là ăn khi rau còn hơi sống, chứ chín quá thì đắng khó ăn. Lâu lâu có con cá lóc đồng, má lấy phần đầu và đuôi nấu canh làm ngọt nước, còn phần mình thì khứa nhỏ ra rồi đem kho tiêu. Bữa cơm với canh rau đắng, cá lóc kho tiêu ngon hết sẩy. Mọi công thức và cách má làm thì Quỳnh nhớ hết, thậm chí ở cái xứ tân tiến này, có những thứ gia vị hảo hạng hơn Việt Nam nhiều, nhưng nồi canh mà cô nấu chẳng giống ngày xưa.




  1. Có chồng là người Mỹ, trước đây anh sang Việt Nam công tác ngắn hạn theo phân bổ của công ty. Trong một dịp nghỉ lễ, anh về vùng quê của Quỳnh theo lời mời của một anh bạn cùng công ty. Vô tình gặp cô gái thôn quê, nước da ngâm, với nụ cười dễ thương cuốn hút anh từ cái nhìn đầu tiên. Thế là sau chuyến đi chơi ấy, anh làm quen Quỳnh, được vài năm thì ngỏ ý xin cưới cô làm vợ. Sau khi hết thời gian công tác tại Việt Nam, anh trở về Mỹ, khoảng năm sau thì bảo lãnh cô qua cùng anh. Má ở lại quê một mình.

Không phải vợ chồng Quỳnh bỏ má lại, anh đã làm giấy tờ bảo lãnh cả hai mẹ con sang định cư, nhưng bà không chịu đi. Quỳnh cứ nài nỉ mãi: “Má! Má có thương con má đi với con, không có má con buồn lắm!”. Thương con thì thương vô kể, nhưng bà nhớ lại lời kể của mấy bà bạn ở xóm trên, sau chuyến qua Mỹ hay Úc thăm con về rồi than thở: “Ở cái xứ quỷ gì mà buồn chán muốn chết. Đã không biết tiếng tây thì chớ, mà xung quanh toàn ông bà tây, ổng bả xì xào có hiểu gì đâu. Mấy đứa con đi làm cả ngày, đành thui thủi trong nhà một mình. Tối nó về nói chuyện láp giáp vài câu rồi tắt đèn đi ngủ. Có cho tui tiền triệu qua bển lần nữa tui cũng hổng đi.” Nhớ lời ấy rồi ngẫm tới cái cảnh xa quê, xa bà con xóm giềng, bà chịu không nổi.

-“Quỳnh, con thương má! Xa con má chịu không nổi. Nhưng bắt má xa luôn mồ mả ông bà, xóm giềng, giàn bầu, giàn bí, má càng khó sống hơn. Con thương thì thông cảm cho má! Qua đó rồi vài năm, chừng nào ổn định thì vợ chồng con về thăm má!”.

Thương con thì muốn sang ở cùng, nhưng nghĩ tụi nó cũng cần có hạnh phúc riêng, thân già có qua thì vài năm cũng chết. Sợ không chết ngay mà nằm lây lất cực con cực cháu, vậy là bà quyết định không đi mà ở lại. Hôm đưa Quỳnh ra sân bay, hai má con cứ quyến luyến bịn rịn, chẳng sao rời nhau được. Thời gian cũng đến, bà đứng ngó cô con gái vào khu vực soát vé, hai tay vịn hàng rào mà nước mắt ràng rụa. Lặng chừng một quãng, đỡ xúc động rồi bà đứng lên, đội chiếc nón lá, xách cái giỏ đệm ra cổng bắt xe về quê. Quỳnh đi xa dần theo chiếc máy bay đưa cô qua xứ mới, bà cũng xách giỏ về quê, bắt đầu cuộc sống xa con và ở một mình.

Tới đất Mỹ, Quỳnh được chồng rước về nhà. Ăn uống chút ít rồi nghỉ ngơi. Tỉnh lại sau giấc ngủ dài, cô soạn quần áo, thấy trong cặp có một cái bọc nilon nhỏ màu đen, mở ra thì thấy mấy cọng rau đắng mà má tranh thủ ngắt trong lúc cô đang xếp đồ, rồi lén bỏ vô vali của cô. Mấy cọng rau vì thiếu nước nên héo queo, lá vàng úa. Quỳnh ngó mãi mấy cọng rau, rồi áp mặt vào mà khóc. Tiếng khóc nứt nở thay cho nỗi nhớ quê, nhớ má.

Dần dà, Quỳnh theo học tiếng Anh, học thêm nghề hớt tóc. Vốn thông minh và khéo tay, giao tiếp tốt cộng với tính làm việc chăm chỉ, nên mọi người quý mến cô nhiều. Mỗi tuần, Quỳnh gọi điện thoại về cho má. Lần nào cô cũng hỏi thăm giàn bầu bí thế nào? Luống rau muống ra sao? Và đám rau đắng má trồng vẫn còn tốt? Trong tâm trí Quỳnh, quê hương được gợi lên trong cô qua những cái giản đơn thế thôi. Rồi vợ chồng cô có con, bận rộn nên những cuộc điện thoại về cho má thưa dần. Trong những lần nhớ con, bà cầm điện thoại rồi lại bỏ xuống tự nhủ thầm: “Chắc nó bận!”.


  1. Đang làm trong cửa tiệm, đến trưa khách mới ngớt chút xíu, cô tranh thủ nghỉ ngơi. Chiếc điện thoại trong túi reo lên, Quỳnh cầm ra ngó. Số điện thoại từ Việt Nam, gọi nhỡ mấy cuốc từ sáng tới giờ. Quỳnh bấm máy trả lời với giọng điệu uể oải:

-“Quỳnh hả con? Phải Quỳnh không? Con Quỳnh đó hả?”. Đầu máy bên kia hỏi liên tục, thêm tiếng ồn khiến cuốc điện thoại khó nghe rõ giọng ai.

-“Dạ! Quỳnh đây! Ai đó! Gọi có…”.

Chưa nói dứt tiếng, đầu máy bên kia vừa khóc vừa nói:

-“Chú Sáu nè! Má con chết rồi! Bả kêu chú Sáu điện cho con, mà con không nghe máy. Giờ bả đi được mấy tiếng rồi Quỳnh ơi!”.

Điện thoại trên tay Quỳnh rớt xuống đất cái xoảng, mọi người trong cửa hàng nhìn vào cô chăm chăm. Rồi cô khóc thét lên: “Má ơi! Má! Má ơi!”.

Vợ chồng tức tốc sắp xếp về Việt Nam, mãi sáng ngày thứ ba sau khi bà chết, Quỳnh mới về tới. Nhìn quan tài má được đặt giữa nhà, Quỳnh chết lặng cả người. Cô không khóc được nữa, mọi cảm xúc trong cô giờ đã bị đóng băng vì sự ra đi quá đột ngột của người mẹ thân yêu. Xác bà được quàn tại nhà ngày hôm đó nữa rồi hôm sau đem tới nhà thờ làm lễ an táng, được chôn ở đất thánh họ đạo. Ban đầu cô muốn xin hỏa táng để đem cốt bà sang Mỹ cùng cô, nhưng theo ước nguyện của bà rằng muốn nằm chung với ông bà tổ tiên ở đất thánh họ đạo. Quỳnh đành chiều ý mẹ.

Lo xong hậu sự cho mẹ, vợ chồng Quỳnh tranh thủ thăm bà con trong xóm, hỏi thăm và cám ơn bà con. Khoảng tuần sau, vợ chồng trở về Mỹ. Trên đường ra bến xe tỉnh, chú Sáu chạy xe máy đuổi theo Quỳnh, níu tay cô lại.

-“Quỳnh! Má con dặn chú khi nào con về hái cho con ít rau đắng. Bả biểu con thích ăn rau đắng. Nè, con đem theo về bển nấu canh mà ăn!”

Quỳnh nhận bịch rau từ tay chú Sáu, nước mắt cô lúc này bắt đầu rơi lã chã. Cô cám ơn chú rối rít, rồi chào chú mà lên đường.


  1. Trở về Mỹ, may là ở gần khu Little Sài Gòn, nên Quỳnh hay tranh thủ sau giờ làm vào các cửa hàng bán đồ Việt Nam, tìm thứ rau quê mùa ấy. Thi thoảng có đợt rau từ Việt Nam qua, cô vui hết sức, mà vui hơn hết là thấy cọng rau đắng trong gian hàng, vì nó gợi trong cô người mẹ kính yêu đã khuất, gợi lên quê hương dấu yêu và hương vị thân quen.

-“Miss, can I help you?” (Thưa cô, tôi giúp gì được cho cô). Nhân viên bán hàng hỏi Quỳnh.

-“I want to buy some…”. Quỳnh lúng túng vì không biết rau đắng nói bằng tiếng Anh như thế nào.

-“Chị muốn mua gì? Em là người Việt Nam.” Cô bé nhân viên cười bảo.

Niềm vui khó tả khi gặp đồng hương trên đất khách, cô nói muốn tìm mua rau đắng. Bé nhân viên chỉ Quỳnh xuống cuối dãy gian hàng. Quỳnh chạy một mạch, thấy vài ký rau đắng đang được bày ở đó, cô gom hết vào túi rồi đem tính tiền. Bé nhân viên nhìn Quỳnh mua nhiều, nên cười hỏi:

-“Chị thích ăn rau đắng lắm hả?”

-“Ừ! Chị thích lắm! Chị cho em số phone. Khi nào có rau đắng gọi cho chị hay nha! Chị ở gần đây thôi.”

Vậy là có mối quen là nhân viên bán hàng, là người Việt Nam, cũng là mối rau đắng, Quỳnh mừng hết sức.

Ghé chợ mua con cá lóc làm sẵn, Quỳnh vội lái xe về nhà. Bắt nồi nấu canh rau đắng, lấy đầu và đuôi cá nấu canh, mình cá khứa ra kho tiêu, thêm mùi gạo chín thơm phức. Bữa cơm Việt Nam hôm ấy thịnh soạn lắm, chồng Quỳnh thích thú ngồi ôm vợ, con gái anh chị cũng sà vào lòng ba mẹ. Quỳnh ngó lên bức hình má trên tường, nước mắt tuôn ra, cô nói với má:

-“Má ơi! Hôm nay giỗ má! Con nấu canh rau đắng mà má thích nè! Thêm cá kho tiêu nữa…”. Nói tới đó, rồi Quỳnh khóc…


Little Stream

03 tháng 11, 2020

Truyện ngắn: BÃO BIỂN

    (Truyện ngắn – tưởng nhớ những ngư dân đã chết vì nghề biển)

  1. Anh em ơi, bão tới rồi. Tin báo 4 giờ chiều nay bão tới!”. Ba Cổn đứng phía bánh lái la toáng lên với nét mặt hoảng hồn.

Anh Tám nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo tay, kim chỉ 3 giờ 45 phút chiều, gió bắt đầu nổi lên, vài giọt mưa lắc rắc. Anh khuyên mọi người bình tĩnh, đừng lo lắng quá!

-“Tụi mày cởi quần áo, bỏ những đồ trên tàu không cần thiết xuống biển. Thằng Cổn coi quanh đây có đất liền thì nhanh cho tàu về hướng đó. Tạm trú ở đó tới khi hết bão sẽ về nhà”.

Mưa bắt đầu lâm râm. Nét lo lắng hiện lên cách rõ rệt trên khuôn mặt những ngư dân hiền lành, chất phác. Tàu chuyển hướng và bắt đầu di chuyển nhanh chóng.

Đúng 4 giờ, gió bắt đầu xoáy mạnh. Anh Tám chật lưỡi: “Chà! Nhanh dữ vậy!”. Ngó đàng xa còn vài cây số nữa thì tới chòm đảo nhỏ, anh thúc mọi người cho tàu chạy nhanh hơn.

Biển chao dữ dội, chẳng xác định được chao theo hướng nào, gió cứ xoáy lên tục làm con tàu xoay mãi mà chẳng thể nào vô được chòm đảo.

-“Anh Tám ơi! Gãy bánh lái rồi”, thằng Sáu la làng lên trong cơn giông. Mọi người hoảng hồn chấp tay khấn vái, anh Tám vội làm dấu Thánh Giá rồi hét lên: “Nhảy xuống bơi vào bờ nhanh! Kẻo không kịp!”. Tất cả nghe lệnh vừa nhảy xuống, bơi khoảng vài trăm mét thì một tiếng “Oàng” khủng khiếp vang lên, nhìn lại con tàu đã bị đánh vỡ tan tác, không biết thành bao nhiêu mảnh.




  1. Chị Tám đứng trước bàn thờ Chúa, đọc chẳng biết bao nhiêu kinh rồi, đôi mắt lênh láng nước. Chị thầm thĩ:“Chúa ơi! Giữ gìn chồng con với mấy anh em ngoài biển. Cho họ về đất liền được bình an”.

Chị hướng mắt ra cửa, nhìn cơn bão đang xoáy dữ dội, đôi bàn tay níu tà áo rồi vắt chặt, nét mặt không giấu được nỗi lo lắng khủng khiếp. Miệng lẩm bẩm: “Tui nói với ông rồi mà! Ở nhà đi! Mùa này biển hay động đột xuất, vậy mà ông có nghe tui đâu!”.

Anh chị mới cưới chưa tròn năm, chưa có với nhau đứa con nào. Nhưng gia cảnh khó khăn quá, anh suốt ngày phải quần quật với nghề biển để mong gia đình khấm khá hơn chút đỉnh. Ước mơ là vậy, nhưng túng thiếu cứ vây hãm tứ bề, biết làm sao.

Chuyến ra khơi lần này của anh với các bạn cũng là chuyến đi liều lĩnh. Trên đài đã báo mùa này biển hay động, mà anh vẫn cương quyết đi. Cục Quản Lý ngư dân đã cảnh báo đi về trong ban ngày thôi, chỉ đánh bắt gần bờ. Nhưng cái mộng làm giàu bám anh dai quá, anh với anh em ra xa bờ, để giờ gặp bão.


  1. Lực lượng kiểm ngư đã liên lạc với gia đình các nạn nhân, xác minh chưa thấy họ về. Đồng thời cũng kiểm tra kỹ lưỡng không thấy tàu họ neo bến trong khu vực kiểm ngư. Sau khi xác minh thực tế, lực lượng phát tín hiệu khẩn:
  • Alo! Lực lượng kiểm ngư gọi lực lượng tìm kiếm, cứu nạn ngư dân. Tàu HS – 845 ra khơi lúc 6 giờ sáng nay, hiện chưa về bến. Có thể đã gặp bão ngoài khơi, xin hỗ trợ.”

Lệnh đã được phát ra, mọi thành viên trong lực lượng tìm kiếm, cứu nạn ngư dân trên biển bắt đầu triển khai.


  1. “Thằng Chín Cựa, Sáu Bê, Bảy Thế, Hai Thông, Tư Thành… rồi tao…Còn thằng Ba Cổn đâu?”. Anh Tám điểm danh các thành viên khi đã lên chòm đảo tránh bão. Anh hốt hoảng vì không thấy thằng Ba Cổn.

Mọi người cũng căng thẳng không kém, dáo dác tìm xung quanh. Biển vẫn đánh vào bờ những đợt sóng dữ dội như muốn ăn tươi nuốt sống cả cái chòm đảo. “Hổng lẽ…”, thằng Chín buộc miệng định nói gì đó. Nhưng Anh Tám ngăn nó lại: “Bậy, đừng nói bậy!”. Nói vậy chứ nét mặt Anh Tám hiện lên nỗi lo vô hồn. “Đợi bão lắng rồi đi kiếm nó!”

Cả nhóm lạnh cóng, người ướt nhẹp, run cầm cập vì lạnh và đói. Anh Tám động viên anh em chịu khó. Chắc hẳn bên quản lý ngư dân sẽ báo cáo rồi sẽ ra tìm tụi mình ngoài này.


  1. “Chị Tám ơi! Có tin gì của Anh Tám chưa?”. Vợ thằng Sáu Bê dắt theo hai đứa con nhỏ xíu chạy qua nhà Anh Tám, hỏi tin tức.
  • “Chưa mày ơi! Tao cũng lo quá! Hổng biết giờ sao nữa.” Mấy chị em ôm nhau khóc tức tưởi, chỉ biết chờ chứ làm gì hơn được.

Lát sau vợ Chín Cựa, Bảy Thế, Hai Thông, Tư Thành, Ba Cổn cũng chạy qua nhà chị Tám. Mấy chị em ôm nhau khóc. Đã quá 9 giờ tối rồi, bão tạm lắng, chỉ còn mưa rơi nặng hạt ngoài trời. Chị Tám thấy chị em với mấy đứa nhỏ đói bụng, nhanh miệng nói:

-“Để tao vô nấu ít cơm, nhà có sẵn mắm cá trộn đu đủ, đem chị em mình ăn, rồi ra biển đợi mấy ổng. Chắc không sao đâu! Tụi mày đừng lo quá!”.

Nhìn mâm cơm dọn lên, chẳng ai buồn gắp miếng đồ ăn nào, chỉ và vài đũa cơm trắng rồi buông đũa. Vợ thằng Ba Cổn thút thít như thể có linh tính không lành:

-“Mấy chị ơi! Lỡ ông Cổn ổng…”. Chưa dứt lời, chị Tám ngắt lời nó:

-“Bậy! Đừng nói quở. Không sao đâu! Thôi ra biển đợi mấy ổng đi tụi bay.”


  1. – “Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Tụi mình chia ra kiếm thằng Cổn, biết đâu sóng tắp nó vô chỗ nào đó trong cái cồn này. Nhớ đi cẩn thận”. Anh Tám nói với anh em trong nhóm.

Cả nhóm chia ra đi kiếm, tiếng vọng giữa đảo hoang gọi tên thằng Cổn khắp cồn.“Cổn ơi! Mày ở đâu!”. Nhưng chẳng nghe tiếng nó đáp lại.

Cả ngày quần quật ngoài biển, thêm vật vã với cơn bão hồi chiều, cộng với cái bụng đói meo vì chưa có gì bỏ vào, anh em kiệt sức. Sau một hồi kiếm thằng Cổn, tất cả quay lại điểm tập trung trong vô vọng. Tư Thành bật khóc: “Nó… chết thiệt rồi mấy anh ơi!”.

Anh Tám trầm ngâm ngồi bệt xuống trên bãi cồn, thở ra mấy tiếng trong thất vọng. Rồi nói:

-“Thôi tụi mày. Đừng buồn nữa! Cái nghề này nó vậy đó. Sống chết chẳng biết đâu mà lường. Giờ thì chỉ mong thằng Cổn vẫn còn sống hoặc đã tắp vào một cái cồn nào đó. Nếu nó chết anh em mình tưởng nhớ nó, mong linh hồn nó sớm an nghỉ”.

Anh Tám kêu anh em đọc kinh Mân Côi, xin Đức Mẹ chở che anh em, nhất là giữ thằng Cổn nếu còn sống thì được bình an. Giờ thì ráng đùm bọc nhau, đợi tàu cứu hộ. “Chắc chắn giờ đội cứu hộ đã lên đường tìm kiếm anh em mình rồi”, anh Tám chắc mẩm trong bụng.


  1. Đài báo cơn bão đã đi qua, đội cứu hộ cứu nạn đã lên đường từ lúc 7 giờ tối, vì trời vẫn còn mưa nặng hạt, nên đội không di chuyển nhanh được. Những bóng đèn pha của đội dọi sáng cả một vùng biển. Đèn cứu hộ chớp lên đỏ loáng cả vùng biển, cùng với tiếng loa đội cứu hộ vang lên phá tan sự yên tĩnh đáng sợ của biển về đêm.

Sau hơn một giờ khởi hành, nhóm đã thấy những mảnh tàu gỗ bị sóng bão đánh nát ra. Họ nhặt lên từng mảnh và tính toán lực gió, sóng, bão. Sau khi mẫm chừng, đội cứu hộ khoanh vùng phạm vi tìm kiếm.

Theo ước tính sơ bộ, có một chòm đảo cách vị trí này gần 10 cây số. Nhưng cũng có thể họ bị sóng đánh và trôi dạt. Tàu chia làm bốn hướng tìm kiếm.


  1. Mưa đã tạnh. Mấy chị em đứng trên bờ biển rọi đèn đợi. Đã gần 11 giờ đêm rồi mà chưa thấy động tĩnh gì. Những ngư dân lân cận cũng lấy xe máy, xe đạp chạy ven biển. Đèn dọi sáng khu vực bờ biển. Họ mong tìm được xác của những ngư dân đáng thương này nếu có.

Chị Tám bắt kinh mân côi chị em cùng đọc. Giờ thì chỉ còn trông chờ vào Đức Mẹ, vào Chúa và đội cứu hộ. Biển cứ đen ngòm như choàng lên tâm trí u uẩn của chị em và những người đang tìm kiếm nạn nhân trên bãi biển vậy.

Đã bao nhiêu kinh rồi mà vẫn chưa thấy động tĩnh gì…


  1. Lực lượng cứu hộ, nhóm hướng ra phía chỏm đảo, phát tín hiệu liên tục. Thấy có ánh sáng, tiếng còi, cả nhóm anh Tám nhảy cẩng lên: “Được cứu rồi tụi bây! Tàu cứu hộ tới rồi!”.

Cả nhóm anh Tám tụ lại, đếm hai ba rồi đồng thanh hú lên rất to để nhóm cứu hộ nghe được. Sau gần chục tiếng hú, tiếng còi cứu hộ càng gần, và cuối cùng đã chạm tới đảo mà cả nhóm đang đứng đợi.

Mặc đồ cứu hộ kỹ lưỡng, anh em được đưa vào bờ, cả nhóm vui mừng nhưng vẫn buồn vì còn thằng Cổn…


  1. Gần 4 giờ sáng, tiếng kinh cầu vẫn không ngớt. Đèn trên biển đi kiếm nạn nhân vẫn sáng. Có người đã đem mấy cây nhang ra vái rồi cắm trên bờ cát. Từ xa xa, đèn của đội cứu hộ đã rọi tới đất liền, chị Tám hét lên:

-“Về rồi tụi bay, có tàu cứu hộ vô kìa! Chắc cứu được rồi!”.

Anh Chị Tám, vợ chồng Chín Cựa, Sáu Bê, Bảy Thế, Hai Thông, Tư Thành ôm nhau rối rít. Vợ con Ba Cổn chạy lại anh Tám hỏi:

-“Chú Tám ơi! Chồng con, cha xấp nhỏ…”

Anh Tám lắc đầu, rồi đặt tay lên bờ vai gầy nhom của nó. Nó khóc nấc lên vài tiếng rồi lịm dần…


  1. Xác Ba Cổn được trục vớt lúc 9 giờ sáng hôm sau ở một đảo khác gần chỗ mà nhóm anh Tám trú ẩn. Có lẽ sáng hôm sau xác mới tấp vào đây, vì nhóm anh tám đã tìm cả đêm mà không thấy. Trên xác nó có vết bầm trên đầu và cổ. Có lẽ vì nó đứng chỗ bánh lái nên khi nhảy xuống đã đập trúng phần bánh lái hoặc mạn tàu rồi ngất xỉu. Trên cánh tay nó vẫn còn tràng chuỗi mân côi 10 hạt mà vợ nó tặng nó trong dịp ngày cưới cách đây một năm trước.

Vợ Cổn nhận xác chồng mà nấc lên từng tiếng. Lễ tang của Ba Cổn đông bà con tới dự. Vợ chồng Anh Tám, Chín Cựa, Sáu Bê, Bảy Thế, Hai Thông, Tư Thành túc trực với tang quyến suốt ngày hôm sau, trước khi tiễn nó về lòng đất.


Cha xứ, trong thánh lễ an táng của Cổn, nhắn nhủ với anh chị em giáo dân: “Sự ra đi bất ngờ của anh Phêrô Cổn hôm nay nhắc tôi và anh chị em hãy luôn sẵn sàng, vì sự bất ngờ của chính cuộc sống mong manh nơi trần thế này! Xin anh chị em cầu nguyện cho linh hồn anh Cổn sớm hưởng nhan thánh Chúa trên nước thiên đàng”.


                                                                            Little Stream